Thứ Sáu, 14/03/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

24/09/2015 08:08 8569
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Người xưa có câu: Long phụng trình tường (Rồng, phượng báo điềm lành) khi nói về hạnh phúc lứa đôi, sự may mắn, thịnh vượng về công danh, tài lộc và địa vị xã hội. Rồng và phượng là hai linh vật trong tứ linh (long, lân, qui, phụng). Theo sách Thuyết văn giải tự trong 389 loài bò sát có vảy thì rồng là loài đứng đầu và có sức mạnh vô song. Rồng là biểu tượng của sự sinh sôi mạnh mẽ, của phương Đông và của mùa xuân.

Dưới thời quân chủ, rồng được suy tôn là biểu tượng của vương quyền, gắn liền với hình ảnh ông vua, là đỉnh cao của khái niệm quyền uy. Chim phượng được tôn vinh là vua của các loài lông vũ, là biểu tượng của mặt trời, của phương Nam và của mùa hạ. Trong mối tương quan về giới tính rồng biểu thị cho yếu tố dương, phượng biểu thị cho yếu tố âm. Vì thế, chim phượng cũng là biểu tượng của hoàng hậu. Theo truyền thuyết loài chim này chỉ xuất hiện vào lúc thái bình, thịnh trị và chỉ đáp xuống ngọn cây ngô đồng. Ngô đồng sinh hỉ, vu bỉ cao cương. Phụng hoàng minh hỉ, vu bỉ triêu dương (Ngô đồng mọc ở đồi cao. Phượng hoàng cất tiếng đón chào nắng mai). Cũng bởi điển tích này mà trong hoàng cung Huế, các vua triều Nguyễn cho trồng rất nhiều cây ngô đồng, hẳn là để đón mừng phượng hoàng đến đậu!

Hình ảnh rồng phượng còn được sử dụng để trang trí trên trang phục của bậc đế vương, hoàng hậu và các thành viên của hoàng gia triều Nguyễn, với kiểu thức đa dạng và những quy định rất nghiêm ngặt về số lượng, chất liệu và quy cách thể hiện. Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn biên soạn, trên chiếc mũ nhà vua đội lúc thiết đại triều có đính 31 con rồng bằng vàng, 30 đóa hoa vuông khảm ngọc, 140 hạt kim cương và trân châu; trên mũ của hoàng hậu có đính 9 con rồng và 9 chim phượng bằng vàng, cùng 4 cái trâm bằng bạc có gắn 198 hạt trân châu và 231 hạt pha lê; mũ của hoàng thái hậu chỉ thêu 9 chim phượng; còn mũ của cung giai thì tùy theo thứ bậc mà có từ 1 chim phượng đến 7 chim phượng...

Rồng chỉ được thêu trên áo của vua và của hoàng thái tử, còn áo của hoàng tử chỉ được thêu con mãng, một biến thể thứ cấp của rồng. Áo của hoàng thái hậu và hoàng hậu đều được thêu chim phượng (có 3 dải đuôi) trong khi áo của công chúa chỉ được thêu chim loan (giống như chim phượng nhưng chỉ có một dải đuôi). Rồng xuất hiện trên long bào của vua dưới các hình thức phi long (rồng bay) hay hồi long hướng nhật (rồng quay đầu về phía mặt trời), kích thước cân đối, mặt rồng uy nghi, chân có 5 móng; còn rồng trên long bào của hoàng thái tử chỉ là rồng mặt nạ, thân rồng thu nhỏ, chân chỉ có 4 móng; còn trên mãng bào, hay mãng lan của hoàng tử thì chỉ là các loài giao, mãng... những hóa thân bậc thấp của rồng.

Tương tự, trên phụng bào của hoàng thái hậu và hoàng hậu, chim phượng thường được thể hiện với các đồ án tam phụng (ba chim phượng) hay đoàn phụng nhật bình (chim phượng được thể hiện thành hình tròn), với những nét dệt, đường thêu rất sống động và công phu; còn trên áo của công chúa và cung giai thì chim phượng đã được giản lược và cách điệu thành chim loan.

Sự thể hiện của rồng phượng trong trang phục cung đình Huế còn tùy thuộc vào tên gọi và chức năng của các loại áo mão. Chẳng hạn, áo vua mặc lúc thiết đại triều và trong các dịp lễ Tết, gọi là long bào, thì được thêu 9 con rồng, trong đó 2 con rồng ở thân trước và thân sau là những phi long thêu bằng chỉ bóng và chỉ kim tuyến, mắt rồng đính các viên đá quý nhập khẩu từ Ấn Độ. Áo vua mặc trong các dịp thường triều gọi là hoàng bào, thêu viên long (rồng cuộn tròn) bằng tơ vàng có nạm trân châu. Áo vua mặc khi tế giao gọi là long cổn, màu đen, tay thụng, thêu lưỡng long triều nhật (hai con rồng chầu mặt trời) dọc hai thân trước. Áo vua mặc khi cày ruộng tịch điền là áo sa kép màu gạch non, thêu long vân (rồng ẩn trong mây). Áo vua mặc trong các tiết Vạn Thọ và Thánh Thọ, ngoài các đồ án rồng, còn có các chữ Vạn Thọ, Trường Thọ, Phúc Thọ thêu bằng cườm màu đỏ và trắng, tay áo có thêu hình con dơi, ngụ ý may mắn và hạnh phúc. Trong khi đó, áo đại triều của hoàng thái tử có lớp ngoài may bằng sa nam, lớp trong bằng the bát, thêu hình viên long, gấu áo thêu đồ án lý ngư hóa long (cá chép hóa rồng) nổi trên nền màu đỏ; còn mãng bào của các hoàng tử thì được may bằng đoạn bát ti, bên trong lót loại sa dệt dọc gọi là xuyến dọc, thêu 9 con rồng 4 móng, gọi là con mãng.

Áo của hoàng hậu (hoàng quý phi) mặc trong các dịp lễ Tết gọi là phụng bào, lớp ngoài được may bằng sa bóng, lớp trong lót bằng nhiễu, thêu hình tam phụng bằng chỉ bóng và chỉ kim tuyến ở giữa thân, hai tay áo thêu 2 chim phượng đang bay và các cụm mây ngũ sắc. Trên phụng bào của hoàng hậu cũng có những chữ Thọ, Phúc… kết bằng các hạt cườm màu trắng và màu đỏ để cầu mong hạnh phúc và trường thọ. Áo đại triều của công chúa được may bằng đoạn bát ti, bên trong có lót lớp lụa mỏng gọi là quế đơn, thân áo thêu 13 hình chim loan cuộn tròn, cùng với hình mặt trời và những chiếc bình, nên gọi là áo đoàn loan nhật bình . Trên viền cổ áo còn thêu hình 5 chim phượng trong đồ án ngũ phụng tề phi. Áo của hoàng thái hậu (hoàng thái phi) mặc trong các dịp đại lễ được may bằng đoạn bát ti, bên trong lót bằng nhiễu tứ quí, viền cổ áo trang trí 9 hình chim phượng, đặc biệt, trước ngực có hai mảnh kim bội bằng vàng chạm hình chim phượng, có khuy móc vào nhau, dùng thay hạt cúc.

Rồng phượng là những biểu tượng cao quý của chế độ quân chủ nên được thể hiện một cách công phu, cẩn trọng trên trang phục của vương triều Nguyễn. Những biểu tượng ấy còn là lời cầu mong cho hạnh phúc và phồn thịnh, cũng như sự trường trị mà bất kỳ chế độ nào cũng hằng mong mỏi.

Một số hình ảnh minh họa:

Hoàng đế Khải Định trong trang phục tế giao.

Hoàng đế Bảo Đại trong trang phục đại triều.

Hoàng hậu Nam Phương, vợ vua Bảo Đại, trong trang phục đại triều.

Hoàng thái tử Bảo Long, con vua Bảo Đại, trong trang phục thường triều.

Long bào của vua.

Long cổn tế giao của vua.

Long bào của hoàng thái tử.

Mãng bào của hoàng tử.

Mãng lan của hoàng tử.

Mũ vua đội khi thiết đại triều cho 31 hình rồng bằng vàng.

TS Trần Đức Anh Sơn (Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng)

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Loại hình chân chạc trong đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên

Loại hình chân chạc trong đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên

  • 11/06/2019 08:28
  • 4813

Là loại hình di vật độc đáo xuất hiện từ văn hóa Phùng Nguyên và tồn tại qua các giai đoạn văn hóa tiếp sau (Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn). Đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về tên gọi cũng như chức năng của loại hình hiện vật này. Chúng được gọi bằng nhiều tên khác nhau như hòn kê, ông đầu rau, vật hình cốc, vật hình phễu, vật hình sừng bò, vật giữ lửa, chân giò, chân chạc, vật có liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng nguyên thủy... Đến nay tên gọi chạc gốm được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng hơn cả. Chạc gốm được tạo bằng tay, chất liệu gốm thô pha nhiều cát sạn sỏi nhỏ, đa số có văn thừng, một số ít trang trí văn khắc vạch. Chạc gốm chia thành hai phần: Phần cốc loe ở trên và phần chân ở dưới. Kích thước to nhỏ khác nhau.

Bài viết khác

Nhóm ấn đồng lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Nhóm ấn đồng lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

  • 15/09/2015 14:42
  • 4845

Sự hình thành và phát triển của ấn chương gắn bó chặt chẽ với chế độ xã hội trên mọi lĩnh vực chính trị, tôn giáo, quân sự, kinh tế… Ấn chương không chỉ mang ý nghĩa đánh dấu tín vật làm bằng chứng mà còn thể hiện rõ chức năng biểu thị quyền lực, pháp chế, tăng thêm tính pháp quyền của giai cấp thống trị.