Kim sách Triều Nguyễn là một loại thư tịch cổ đặc biệt, thường được làm bằng vàng, bạc hoặc bạc mạ vàng để ghi lại sắc mệnh, chiếu dụ vua ban về các việc chính sự, lễ nghi triều đình. Đó là sự kiện các hoàng đế lên ngôi, lập hoàng thái tử, tấn phong hoàng hậu, vương phi hoặc ghi công, phong tước và dâng, ban tôn hiệu, thụy hiệu cho hoàng thân, quốc thích... Việc chế tạo kim sách giao cho Hữu ty thuộc bộ Lễ thực hiện. Lời sách do đích thân các hoàng đế tự biên soạn hoặc sai các danh nho, đại thần đương thời chấp bút.
Kim sách Triều Nguyễn là một loại thư tịch cổ đặc biệt, thường được làm bằng vàng, bạc hoặc bạc mạ vàng để ghi lại sắc mệnh, chiếu dụ vua ban về các việc chính sự, lễ nghi triều đình. Đó là sự kiện các hoàng đế lên ngôi, lập hoàng thái tử, tấn phong hoàng hậu, vương phi hoặc ghi công, phong tước và dâng, ban tôn hiệu, thụy hiệu cho hoàng thân, quốc thích... Việc chế tạo kim sách giao cho Hữu ty thuộc bộ Lễ thực hiện. Lời sách do đích thân các hoàng đế tự biên soạn hoặc sai các danh nho, đại thần đương thời chấp bút.
Triều Nguyễn tồn tại gần 150 năm (1802 - 1945) với 13 triều vua, đã cho đúc số lượng kim sách vô cùng lớn. Sự ra đời, mục đích, nội dung của kim sách hầu hết được ghi chép đầy đủ trong các thư tịch cổ đương thời như “Đại Nam thực lục”, “Đại Nam liệt truyện”, “Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ”... Lâu nay nhiều người vẫn nghĩ số kim sách này đã bị thất lạc hết hoặc không rõ số phận chúng ra sao. May mắn thay, hiện Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam đang lưu giữ một sưu tập gồm những kim sách quí nhất, quan trọng nhất và linh thiêng nhất của vương triều Nguyễn. Đặc biệt, trong sưu tập có nhiều quyển kèm theo kim bảo (ấn vàng, ấn bạc) được ban phong trong cùng thời điểm, cùng sự kiện.
Hầu hết kim sách trong sưu tập được làm bằng vàng hoặc bạc mạ vàng. Quy cách kim sách được điển chế vương triều quy định rất nghiêm cẩn. Tùy theo tước hiệu được tôn phong cao thấp khác nhau mà chất liệu, kích thước, trọng lượng và số tờ kim sách khác nhau. Theo sách Đại Nam thực lục, năm 1816, hoàng đế Gia Long lập hoàng thái tử Nguyễn Phúc Đảm (tức hoàng đế kế vị Minh Mệnh), ban cho kim sách, kim bảo. Sách dùng 5 tờ vàng, dài 5 tấc 6 phân 6 li ngang 2 tấc 2 phân 4 ly, mỗi tờ dầy 2 ly; ấn đúc bằng vàng, núm bằng con rồng ngồi, vuông 2 tấc 4 phân 3 ly, dầy 3 phân 2 ly, khắc bốn chữ triện “Hoàng Thái tử bảo”. Còn các hoàng thân, hoàng tử, hoàng tôn khi được phong tước công hầu thì dùng sách bạc mạ vàng 5 tờ, dài 5 tấc 4 phân, ngang 3 tấc 2 phân 4 ly, mỗi tờ dầy 2 ly. Ấn cũng bằng bạc mạ vàng, vuông 2 tấc 3 phân 4 ly, dầy 2 phân 7 ly, núm đều làm hình con cù (một loại rồng không sừng, không râu, không bờm). Năm 1836, hoàng đế Minh Mệnh chuẩn định lệ ban phong: Hoàng quý phi dùng sách vàng. Lục phi dùng sách bạc mạ vàng. Cửu tần cùng với các tiệp dư, quý nhân, mỹ nhân, tài nhân dùng sách bạc. Tài nhân không vào ban thứ nào dùng thái trục (lụa màu). Nữ quan, từ thủ đẳng đến hạ đẳng: dùng long tiên trục (giấy vẽ rồng). Mạt đẳng do bộ truyền sắc, dùng giấy hội.
Đối chiếu thực tế, kim sách trong sưu tập đều làm theo khổ chữ nhật đứng, rộng từ 13 - 16cm, dài từ 23 - 28,5cm, gáy đóng 4 khuyên tròn. Phần lớn kim sách bao gồm cả của các phi tần, hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu có số tờ lẻ từ 5, 7 đến 9 tờ. Duy chỉ có một số sách của các hoàng hậu có số tờ chẵn, trong đó các hoàng hậu thời chúa Nguyễn được 4 tờ còn các hoàng hậu đương triều được 6 tờ. Bìa trước và sau của kim sách hầu hết đều chạm hình rồng 5 móng tượng trưng cho vương quyền, dù đó là sách của các hoàng đế, hoàng tử, thân vương hay các bà hoàng. Rất hiếm gặp bìa sách trang trí hình phượng. Sách của các hoàng đế thường là 9 tờ vàng, có kích thước lớn nhất và cũng nặng nhất. Trường hợp đặc biệt có hai quyển nhiều hơn 9 tờ. Đó là kim sách chép 20 chữ bộ nhật và bài ngự chế “Đế hệ thi” do hoàng đế Minh Mệnh ban năm 1823, dùng tới 13 tờ vàng. Kim sách này dùng cho các hoàng đế kế vị khi nối ngôi thì chọn một chữ bộ nhật làm tên, lấy nhật (mặt trời) làm nghĩa tượng trưng ngôi hoàng đế. Còn 20 chữ trong bài “Đế hệ thi” thì dùng làm tên lót nhằm phân biệt thế thứ, chi ngành các các đời con, cháu về sau. Quyển còn lại là kim sách đúc năm 1845, hoàng đế Thiệu Trị thể theo “Đế hệ thi” ban mỹ tự để đặt tên cho các hoàng tử, hoàng tôn. Quyển này gồm 11 tờ vàng.
Bố cục sách văn thường gồm 3 phần: mở đầu ghi niên hiệu và tên người dâng, ban kim sách; chính văn nêu lý do, ca ngợi phẩm hạnh, công đức người được dâng, ban kim sách và cuối cùng là tước hiệu được tôn, phong cùng những lời chúc tụng, những điều răn bảo cho được xứng với tước hiệu mới. Nội dung kim sách không những chứa đựng những thông tin giá trị về lịch sử, tư tưởng đạo đức, điển chế, điển lễ đương triều mà còn phản ảnh chân thực chân dung cuộc đời, sự nghiệp của các hoàng đế và các nhân vật ghi trong kim sách. Nội dung kim sách có thể chia theo các nhóm chủ đề sau:
- Hoàng đế Gia Long truy tôn thụy hiệu, miếu hiệu cho các chúa Nguyễn và hoàng hậu thời chúa Nguyễn. Nhóm kim sách này gồm 18 quyển được đúc vào năm Gia Long 5 (1806).
- Các hoàng đế đời sau truy tôn thụy hiệu, miếu hiệu cho hoàng đế đời trước.
- Các hoàng đế lên ngôi.
- Các hoàng đế phong lập hoàng thái tử và phong tước cho các hoàng tử. Triều Nguyễn chỉ có 3 lần lập hoàng thái tử là hoàng đế Gia Long lập hoàng thái tử Nguyễn Phúc Đảm (tức hoàng đế kế vị Minh Mệnh). Hoàng đế Minh Mệnh sau khi lên ngôi kế vị đã ra hoàng đế Khải Định lập Đông Cung hoàng thái tử Vĩnh Thụy (tức hoàng đế kế vị Bảo Đại) và hoàng đế Bảo Đại lập hoàng thái tử Bảo Long.
- Các hoàng đế tấn phong hoàng hậu và các phi tần. Trong 13 vua triều Nguyễn chỉ có hai lần lập hoàng hậu khi còn sống. Đó là hoàng đế Gia Long lập chính thất là vương hậu Tống Thị Ngọc Lan làm hoàng hậu và hoàng đế Bảo Đại lập Nam Phương hoàng hậu. Nguyên do cũng do hoàng đế Minh Mệnh sau khi nối ngôi đã đặt ra lệ bất lập hoàng hậu. Tước vị cao nhất chỉ là hoàng quý phi hoặc nhất giai quý phi. Sau khi họ qua đời thì mới truy tôn làm hoàng hậu.
- Các hoàng đế tấn tôn hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu, thái thái hoàng thái hậu.
- Kim sách về việc giáng chức: có duy nhất một quyển hoàng đế Tự Đức giáng Hoàng Quý phi Vũ Thị Duyên (tức Trang Ý Thuận hiếu Thái Hoàng Thái hậu sau này) xuống làm Trung phi.
- Kim sách “Đế hệ thi” của hoàng đế Minh Mệnh và các kim sách nối tiếp “Đế hệ thi” của hoàng đế Thiệu Trị và hoàng đế Tự Đức, dùng để đặt tên cho hoàng đế nối ngôi, đặt tên lót và phân biệt thế thứ, thân sơ giữa dòng đế và các dòng phiên.
Mặc dù quy định về kim sách rất nghiêm ngặt, nhưng tùy tình hình thực tế mà các hoàng đế đương triều cũng có những thay đổi linh động, mềm dẻo cho phù hợp. Năm 1841, hoàng đế Thiệu Trị bảo bộ Lễ rằng: Quốc triều ta, về chế độ ở nhà Thái miếu rất nghiêm cẩn. Sách vàng thì số tờ dùng số lẻ, từ 3, 5 đến 7 tờ, nhưng không được quá 9 tờ. Nay trong sách vàng số chữ hơi nhiều, nếu 3 tờ không đủ, làm thêm lên 7 tờ cũng được. Dòng chữ thưa hay mau, 6 dòng hoặc 8 dòng, châm chước kính cẩn mà viết”. Năm 1862, sau khi ký hòa ước Nhâm Tuất với thực dân Pháp, hoàng đế Tự Đức đã phải thu hồi nhiều kim sách, kim ấn đã ban cho các hoàng thân, công chúa trước đây, nấu thành thỏi để bồi thường chiến phí. Nhưng theo mẫu cũ cải cấp lại bằng sách đồng để lưu giữ đời đời. Từ đời vua Đồng Khánh (1885 – 1889) về sau, do tình hình quốc khố nghèo nàn, những kim sách, kim bảo theo lệ cũ làm bằng vàng đều đổi thành bạc mạ vàng.
Từ 31 tháng 3 tới tháng 8/2016, lần đầu tiên Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam mở cửa trưng bày chuyên đề giới thiệu một phần sưu tập kim sách triều Nguyễn. Với 22 kim sách và 10 kim bảo liên quan, trưng bày là dịp để công chúng tiếp cận thưởng lãm và tìm hiểu những giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật mang đậm dấu ấn của vương triều phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Một số hình ảnh về Kim sách triều Nguyễn:
Hộp đựng kim sách Bạc. Thời Nguyễn, 1802 - 1945
Kim sách Vàng. Niên hiệu Gia Long thứ 5 (1806) Tháng 5 năm Bính Dần (1806), vua Gia Long lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa, kinh đô Huế. Bá quan văn võ dâng kim sách ca tụng công đức của ông.
Kim sách Vàng. Niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816) Hoàng đế Gia Long lập Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm làm Hoàng Thái tử (tức hoàng đế kế vị Minh Mệnh).
Ấn vàng "Hoàng Thái tử bảo" Hoàng đế Gia Long cho đúc cùng kim sách lập Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Đảm.
Kim sách Vàng. Niên hiệu Hàm Nghi thứ 1 (1885) Hoàng đế Hàm Nghi vâng theo di chiếu của Hoàng đế Tự Đức dâng tôn hiệu cho Hoàng tổ mẫu (bà nội) làm Từ Dụ Thái Hoàng Thái hậu.
Ấn bạc mạ vàng "Từ Dụ Thái hoàng Thái hậu chi bảo" Hoàng đế Hàm Nghi cho đúc cùng kim sách năm 1885 tôn Từ Dụ Hoàng thái hậu làm Từ Dụ Thái Hoàng Thái hậu
Điện Thái Hòa trong Đại Nội Huế, nơi diễn ra nghi thức tuyên đọc kim sách ngày các hoàng đế triều Nguyễn lên ngôi hoặc phong lập hoàng thái tử.
(Nguồn: Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế)
Cung Diên Thọ trong Đại Nội Huế, nơi ở và là nơi diễn ra các nghi thức dâng kim sách, kim ấn tấn tôn các hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu triều Nguyễn. Cuối thời Nguyễn, nghi thức này còn diễn ra ở cả cung Trường Sinh. (Nguồn: Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế)
Nội thất Điện Phụng Tiên Điện Phụng Tiên (Hoàng Nhân), nơi thờ các hoàng đế và phối thờ các hoàng hậu triều Nguyễn. Đây là nơi diễn ra nghi thức dâng kim sách, kim bảo tôn thụy hiệu cho các hoàng đế, hoàng hậu sau khi băng hà. Cuối thời Nguyễn, đây còn là nơi cất giữ và trưng bày kim sách, kim bảo cùng nhiều bảo vật đương triều. Điện Phụng Tiên hiện nay chỉ còn cổng tam quan và tường bao. (Nguồn: Nhan's blog)
Nội thật điện Càn Thành Điện Càn Thành (Trung Hòa), nơi ăn ngủ của các hoàng đế triều Nguyễn, là một trong các địa điểm cất giữ kim sách, kim bảo. Điện Càn Thành hiện nay chỉ còn nền móng. (Nguồn: Nhan's blog)
Ths. Nguyễn Quốc Hữu (Phó Trưởng phòng Trưng bày)