Thực hiện khuyến nghị của UNESCO, chỉ đạo của UBNDTP Hà Nội và Quyết định số 2406/QĐ - BVHTTDL ngày 10 tháng 7 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc khai quật khảo cổ học, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội phối hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật thăm dò khu vực phía Đông Bắc nền điện Kính Thiên với tổng diện tích gần 990m2 (01 hố khai quật và 03 hố thám sát ký hiệu TS1, TS2, TS3 để nghiên cứu địa tầng ở những vị trí sâu nhất).
Kết quả khai quật năm 2019 đã có đóng góp thêm cơ sở khoa học về tính chất, niên đại, quy mô, chức năng và giá trị của các di tích tại Khu vực Chính điện Kính Thiên - Hoàng thành Thăng Long.
1. Về địa tầng:
Địa tầng hố đào năm 2019 khá dày: vách Bắc dày 5,05m, vách Nam dày 5,15m - 5,85m, vách Đông dày 5,80m, vách Tây (T1) dày 4,25m - 6,10m, với các đặc điểm như sau:
- Tại các vị trí còn tương đối nguyên vẹn đã nghiên cứu đầy đủ độ sâu như hố TS1 và TS2, các lớp văn hóa với đặc trưng của 1.300 năm lịch sử hiện diện khá đầy đủ từ thời Nguyễn, thời Lê Trung hưng, thời Lê sơ, thời Trần, thời Lý đến thời kỳ tiền Thăng Long.
- Các vị trí còn lại, một phần do không thể đào hết đến sinh thổ, phần khác do bị các di tích muộn hơn phá hủy, tầng văn hóa bị phá hủy nghiêm trọng khiến cho các di tích, di vật ở đó bị xáo trộn lớn đặc biệt là nửa phần hố phía Nam.
- Diễn biến của các lớp văn hóa biến động rất khác nhau giữa các thời kỳ và giữa từng vị trí, cụ thể:
Thời Nguyễn: Lớp văn hóa dày từ 0,80m-1,25m, xuất lộ các dấu tích kiến trúc có móng cột và một số dấu tích khác.
Thời Lê Trung hưng: Lớp văn hóa dày 0,3m-0,4m, xuất lộ các dấu tích kiến trúc thời Lê Trung hưng và Lê sơ, diện tích trải khắp nửa phần hố phía Bắc và nửa phần phía Bắc của phần hố phía Nam.
Thời Lê sơ: Lớp văn hóa dày 0,70m-1,80m, lớp dưới thường là những lớp san nền.
Thời Trần: Lớp văn hóa dày khoảng 0,75m, lớp này được hình thành 2 lớp. Hố thám sát TS1 và TS2 cho phép nhận định nửa phần trung tâm hố phía Bắc vào thời Trần có hình thành một dòng chảy theo hướng Đông Tây. Trên hai mặt cắt Đông và Tây có thể thấy dòng chảy này có dạng hình phễu, miệng loe rộng hình dáng không đều, việc hình thành rất tự nhiên. Miệng của dòng chảy rộng 15m, sâu nhất 1,7m. Dòng chảy được lấp vào thời Trần là thời Lê sơ.
Thời Lý: Chỉ có ở một số vị trí có độ dày trung bình 0,30m.
Thời tiền Thăng Long: Lớp văn hóa xuất lộ trong hố TS1 và TS2 dày 0,3-0,4m là lớp đất xám xanh dẻo. Tại hố TS1 xuất lộ dấu tích kiến trúc cống nước gạch chạy theo chiều Bắc Nam.
Hiện trường hố khai quật KCH
2. Về di tích:
Nhìn chung lại toàn bộ hiện trạng tầng văn hóa, di tích, di vật có thể thấy quá trình hình thành di tích trong hố khai quật năm 2019 như sau:
Khoảng thế kỷ 8-9, ở khu vực này có dấu tích kiến trúc thời Đại La (tiền Thăng Long) mà dấu tích chứng minh rất rõ là cống nước xây bằng gạch khá công phu chạy theo hướng Bắc Nam. Lớp văn hóa này hình thành trực tiếp trên nền đất sinh thổ. Như vậy trước thế kỷ 8-9, ở đây chưa hề có di tích nào. Thế kỷ 10 tuy không hình thành tầng văn hóa riêng biệt nhưng có thể đoán khu vực này cũng có các dấu vết kiến trúc thông qua các đầu ngói ống trang trí hoa sen.
Thời Lý ở hố đào 2017 và 2018 đã xuất hiện các móng cột được gia cố bằng sỏi. Tuy nhiên hố đào 2019 chỉ còn thấy chút ít nền sét nâu vàng thuần không có hiện vật. Có thể nhận thấy lớp sét vàng thời Lý tương tự như ở các khu vực khác đều chồng trực tiếp lên lớp văn hóa thời tiền Thăng Long. Tuy nhiên do sự phá hủy quá mạnh của các giai đoạn sau làm cho di tích thời Lý ở đây bị phá hủy.
Sang thời Trần, khu vực này xuất lộ một con lạch nhỏ hình thành tự nhiên chảy theo hướng Đông Tây, dấu tích này đã cắt phá hầu hết các nền đất thời Lý và thời tiền Thăng Long nơi con lạch chạy qua. Ở phía Nam con lạch này có dấu tích kiến trúc cống nước ngầm, cống nước ngầm này chảy theo chiều Bắc Nam có xu hướng thoát nước xuống lạch nước này. Dấu tích nền móng thời Trần khá dày. Dấu tích kiến trúc Trần khá nhiều nhưng chỉ nhận rõ được 1 dấu tích kiến trúc có ống nước tròn, số còn lại dấu tích quá ít không thể nhận rõ được quy mô.
Đến thời Lê sơ con lạch này được lấp toàn bộ, đồng thời toàn bộ mặt bằng khu vực này được san lấp để xây dựng các kiến trúc móng tường, móng cột. Dấu tích san lấp nền móng thời Lê sơ xuất hiện trên diện rộng, bao trùm hết cả khu vực hố khai quật.
Thời Mạc không thấy dấu tích xây dựng ở đây.
Thời Lê Trung hưng có lớp móng nền có diện tích tương đồng với móng nền thời Lê sơ, đồng thời mật độ xây dựng nhiều, có hệ thống kiến trúc có móng cột kích thước rất lớn và hệ thống sân vườn khá quy củ. Khoảng cuối thời Lê Trung hưng sân vườn bị bỏ nhường chỗ cho hệ thống ao/hồ được xây dựng to lớn công phu với hai tường bằng gạch vồ (lòng ao/hồ rộng 5m), đường nét uốn lượn, khá cầu kỳ.
Tường gạch phía Tây ao hồ thời Lê Trung hưng
Thời Nguyễn toàn bộ dấu tích nói trên được san lấp để xây dựng các kiến trúc thời Nguyễn. Lần đầu tiên dấu tích kiến trúc có móng cột thời Nguyễn xuất hiện ở khu vực điện Kính Thiên được xây dựng khá quy mô và cẩn thận.
Cuối cùng đến lượt các kiến trúc Nguyễn bị phá hủy thay vào đó là các kiến trúc thời Pháp thuộc và thời hiện đại.
3. Về di vật:
Tương ứng với di tích của các thời kỳ là các loại hình di vật.
- Thời tiền Thăng Long: Di vật ít gồm gạch ngói của các giai đoạn thế kỷ 3 - 4 đến thế kỷ 5 - 6, thế kỷ 7 - 9 và thời Đinh tiền Lê. Số lượng hiện vật rất ít, thế kỷ 3 - 6 là một số viên gạch bìa in hình hoa văn ô trám, thế kỷ 7 - 9 có ngói âm dương màu xám, đầu ngói hoa sen và bát gốm men màu (thời Đường). Thời Đinh - Tiền Lê là một số đầu ngói màu đỏ có hình cánh sen.
- Thời Lý: Có chân tảng đá cát, mảnh lá đề rồng cỡ lớn, mảnh mào tượng rồng cỡ lớn bằng đất nung, một số mảnh gạch lát nền hoa sen, hoa cúc. Hiện vật thời Lý ở vị trí này cũng rất ít.
- Thời Trần: Gạch in chữ Vĩnh Ninh trường, gạch vuông, ngói sen, ngói mũi lá, gốm men nhiều loại của Việt Nam, một số ít của Trung Quốc. Số lượng hiện vật thời Trần khá nhiều.
- Thời Lê sơ và thời Mạc. Có nhiều mảnh ngói rồng tráng men vàng, men xanh. Gạch vồ (có viên có chữ), các chân tảng đá đặc trưng của thời Lê Sơ. Số lượng hiện vật thời này khá nhiều, đặc biệt dòng gốm hoa lam thời Lê - Mạc chiếm số lượng lớn (đồ gốm hoa lam vẽ rồng và hoa sen).
- Thời Lê Trung hưng: Gạch ngói, gạch hộp rỗng trang trí hoa cúc, các loại gốm men. Số lượng mảnh hiện vật thời Lê Trung hưng khá nhiều.
- Thời Nguyễn: Là các loại gạch ngói vụn, một ít gốm sứ.
Hiện vật phát hiện tại cuộc khai quật
4. Giá trị nổi bật của đợt khai quật, nghiên cứu năm 2019
Hoàng Thành Thăng Long nói riêng và Kinh Thành Thăng Long nói chung là một khu di tích rộng lớn, phong phú và phức tạp, việc nhận diện kiến trúc của Hoàng Thành không thể một sớm một chiều mà phải trường kỳ, tỉ mỉ và từng bước. Mỗi một năm hai cơ quan nghiên cứu cùng giới khoa học lại nhận thức đầy đủ thêm một chút diện mạo di tích tại khu vực được khai quật. PGS.TS Tống Trung Tín (Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam - Chủ trì khai quật) cho rằng các kết quả nghiên cứu năm 2019 đã đem lại thêm những nhận thức mới, những giá trị mới:
Thứ nhất: Việc phát hiện cống nước gạch kiên cố thời Đại La đã chứng minh cho giả thiết khu vực trung tâm của thành Đại La vẫn là ở khu vực trung tâm HTTL. Nhận định này là quan trọng vì nó sẽ giúp ta tìm hiểu quy mô thành Đại La. Hiểu quy mô thành Đại La sẽ giúp ta tìm hiểu quy mô thành Thăng Long thời Lý.
Thứ hai: Các kiến trúc thời Đinh - Tiền Lê, thời Lý, thời Trần tiếp tục phân bố ở khu vực sau nền điện Kính Thiên, chứng tỏ tính chất trung tâm khá đồng đều trên toàn bộ các vị trí đã khai quật tại khu vực Trung tâm và cũng là tương đồng với toàn bộ khu vực 18 Hoàng Diệu và Vườn Hồng.
Thời Lý phát hiện di vật tượng rồng đất nung kích thước rất lớn (có phần lớn hơn tượng rồng ở khu 18 Hoàng Diệu) cho thấy có thể có kiến trúc có quy mô lớn, quan trọng thời Lý ở đây.
Thời Trần các dấu tích kiến trúc ở đây có quy mô nhỏ. Hiện tượng dấu vết cháy rất nhiều (than tro) gợi đến việc sử sách chép về các cuộc chiến tranh vào cuối thời Trần thế kỷ 14 khiến cho kinh thành bị cháy nhiều lần thành tro bụi.
Thứ ba: Thời Lê sơ, thời Lê Trung hưng, các dấu tích đã xuất lộ nhiều gợi lên nhiều giả thiết mới.
Thời Lê sơ có 2 dấu tích bó nền, 1 dấu tích kiến trúc có móng cột. Các dấu tích này phản ánh thời Lê sơ xây dựng ở đây nhiều công trình quan trọng (dấu tích đất nền màu gạch đỏ và dấu tích dải nền trang trí hoa chanh được gia cố rất cẩn thận). Kiến trúc có móng cột chạy theo hướng Bắc Nam có thể là kiến trúc kiểu hành lang tương tự dấu tích của kiến trúc hành lang ở phía Tây Đoan Môn đã phát hiện năm 2013 - 2014. Điều này gợi ý về không gian kiến trúc chính điện Kính Thiên thời Lê sơ ở phía sau nền điện Kính Thiên có phần thu hẹp lại hơn so với phần phía trước.
Thời Lê Trung hưng hình thành tổ hợp kiến trúc có móng cột lớn phía Tây và kiến trúc sân vườn phía Đông. Kiến trúc có móng cột có khả năng là kiến trúc 5 gian 2 chái nằm trên trục Ngự đạo thẳng tới Đoan Môn - Kính Thiên. Rất có khả năng đây là kiến trúc “cổng” của một khu cung điện khác trong khu vực trung tâm. Theo thư tịch cổ và bản đồ cổ thì sau khu chính điện Kính Thiên là khu điện Cần Chánh. Vậy nếu đúng là kiến trúc cổng thì đây là di tích đánh dấu sự bắt đầu của khu vực kiến trúc quan trọng thứ hai trên trục trung tâm: Đó là khu vực điện Cần Chánh, nơi làm việc của Hoàng đế và triều đình Lê Trung hưng.
PGS.TS Tống Trung Tín (Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam - Chủ trì khai quật)
Kết quả khai quật Khảo cổ học tại Hoàng Thành Thăng Long năm 2019 được các chuyên gia, các nhà khoa học đánh giá cao. Theo GS.TSKH Lưu Trần Tiêu (Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hoá Quốc Gia): "Kết quả khai quật đã cung cấp nhiều tư liệu từ trong lòng đất có giá trị và cùng tư liệu kết quả khai quật các năm 2017, 2018 đã khẳng định khu vực thành cổ Hà Nội và khu 18 Hoàng Diệu là trung tâm của HTTL - trung tâm quyền lực phát triển liên tục hơn 1000 năm lịch sử, trong đó trục trung tâm thời Lý - Trần chưa xác định rõ nhưng trục trung tâm Đoan Môn - Kính Thiên - Hậu Lâu - Bắc Môn là trung tâm quyền lực chí ít là từ thời Lê sơ - Lê Trung hưng; hành cung thời Nguyễn cũng nằm trên trục này".
PGS.TS Trần Đức Cường (Chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Việt Nam) nhận định: "Những kết quả khai quật có rất nhiều lý thú, phản ánh được chiều sâu lịch sử của Thăng Long - Hà Nội".
GS.TS.NGND Nguyễn Quang Ngọc (GĐ Trung tâm Hà Nội học và phát triển thủ đô) cho rằng: "Việc phát hiện ra dấu tích văn hóa Lý và đặc biệt là dấu tích văn hóa trước Lý (hay tiền Thăng Long) ở khu vực này là rất quan trọng. Những các dấu tích kiến trúc tiền Thăng Long có thể là những mảnh còn sót lại của các điện Nhật Quang, Long Thụy thời kỳ đầu định đô Thăng Long".
PGS.TS Bùi Minh Trí (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh thành) nhận định: “Cuộc khai quật năm 2019 đã phát hiện nhiều di tích mới gợi những nhận thức mới góp phần thúc đẩy thêm một bước quan trọng trong việc tìm hiểu diện mạo khu Chính Điện Kính Thiên, qua đó tiếp tục làm tăng thêm giá trị của Di sản thế giới Trung tâm Hoàng thành Thăng Long”.
Cuộc khai quật năm 2019 đã phát hiện nhiều di tích mới gợi những nhận thức mới góp phần thúc đẩy thêm một bước quan trọng trong việc tìm hiểu diện mạo khu Chính điện Kính Thiên, qua đó tiếp tục làm tăng thêm giá trị của Di sản Thế giới Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long.
Trong những năm tiếp theo, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội tiếp tục phối hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật khảo cổ học và nghiên cứu nhằm xác định/phân định làm rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng của các quần thể kiến trúc ở khu vực trục trung tâm, đặc biệt là thời Lê sơ và Lê Trung hưng; tập trung khai quật trục trung tâm Đoan Môn - Kính Thiên - Hậu Lâu - Bắc Môn để có thêm tư liệu phục vụ đề án Nghiên cứu phương án khôi phục không gian Điện Kính Thiên.
TS. Bùi Thị Thu Phương