Di tích Đồng Miễu thuộc thôn Định Thọ 1, thị trấn Phú Hòa, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Từ trung tâm thị trấn Phú Hòa (Thành Hồ) theo quốc lộ 25 chừng 2km, đến cầu Đồng Dinh rẽ phải theo đường kênh chính Bắc, qua khu dân cư Định Thọ 1 sẽ tới khu vực di tích. Di tích là một gò đất lẫn nhiều gạch Chăm cổ, tọa độ 13°01.554’ kinh độ Bắc; 109°01.723’ vĩ độ Đông), độ cao so với mực nước biển 29 mét, cao hơn mặt bằng hiện tại chừng 3 mét, nằm trong khuôn viên nhà ông Nguyễn Tấn Xu (thường gọi là Năm Xu) 74 tuổi, sống độc thân, nuôi heo, gà, vịt, bò. Trên di tích, ông Năm Xu đã xây cất nhà ở, bếp và dãy chuồng heo chiếm hết 3/4 di tích. Với sự xâm lấn di tích như vậy gây rất nhiều khó khăn cho việc mở hố khai quạt khảo cổ học.
Toàn bộ thôn Định Thọ 1 trong đó có di tích Đồng Miễu nằm trong một thung lũng nhỏ, được bao quanh bởi các núi, dãy núi. Phía Đông Nam là Hòn Một, phía Bắc Đông Bắc là Hòn Ông, phía Tây là Hòn Ngang, qua bên kia sông Ba là Núi Bà (nơi có di tích kiến trúc Chăm Pa thế kỉ 12). Phía Đông của di tích, ngay sát quả gò là một dòng chảy như một con suối lớn. Qua khảo sát chúng tôi thấy đây chính là những gì còn lại của một dòng chảy cổ, ở đây còn lại dấu tích của thềm sót với nhiều cuội nhỏ, lòng sông còn rất nhiều cát dạng hạt thô, những yếu tố đủ để kết luận về một dòng sông cổ.
Khảo sát khu vực xung quanh di tích, chúng tôi phát hiện dấu tích của một cây cầu, một con đập và những mảnh gốm Chăm cổ, gốm văn in ô vuông kiểu Hán, có thể khu vực này có di chỉ cư trú của cư dân Chăm Pa xưa từ những thế kỉ 3-4 CN, tương tự như lớp cư trú Thành Hồ.
Năm 2003, cố GS. Trần Quốc Vượng cùng các cộng sự đã đến khu vực này và khẳng định đây là một di tích kiến trúc Chăm Pa. Trong những năm sau đó các cán bộ của Viện Khảo cổ học, Trung tâm trường Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội, Bảo tàng Phú Yên cũng đã đến khảo sát di tích này và nhận định đây có thể là Thánh địa Bà La Môn giáo của vùng Chăm Pa Phú Yên theo mô hình vùng Chăm Pa của cố GS. Trần Quốc Vượng. Ông cho rằng một tiểu vùng Chăm Pa thường được giới hạn bời 2 đèo ở hai đầu, với trục chính là con sông lớn, có tính huyết mạch (như sông Ba ở Phú Yên, hay sông Thu Bồn của Quảng Nam…), cửa sông hay đúng hơn, gần cửa sông là khu vực cảng thị, ở Phú Yên có lẽ đó là khu vực chợ Xéo hiện nay, gần ngay ngã ba sông Chùa đổ vào sông Ba thuộc thôn Ngọc Phước, xã Bình Ngọc, TP. Tuy Hòa. Nơi đây đã phát hiện những hũ tiền đồng lớn, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Phú Yên. Ngược lên theo dòng sông Ba chừng hơn 10km sẽ đến Thành Hồ, trung tâm hành chính của Chăm Pa xưa, nay là trung tâm hành chính huyện Phú Hòa, vượt qua dãy Hòn Ông theo một con đường cổ mà người dân vẫn còn nhớ là đến thung lũng Định Thọ hiện nay, nơi có di tích Đồng Miễu, vị trí địa lí này cho phép đi đến nhận định: Khu di tích Đồng Miễu chính là Thánh địa của tiểu vùng Chăm Pa xưa nay là tỉnh Phú Yên. Câu hỏi đặt ra ở đây là: tại sao Thánh địa mà lại chỉ có một ngôi đền khá khiêm tốn? Câu trả lời là không dễ và chúng tôi sẽ cố gắng giải đáp ở phần thuyết minh về đặc trưng di tích và di vật của Đồng Miễu. Di tích này không hề được người Pháp biết đến, mặc dù trong cuốn Khảo tả các công trình Chăm Pa.
Cán bộ tham gia khai quật tại di tích
2. Đặc trưng di tích.
Sau khi làm xuất lộ gần như toàn bộ mặt tường phía Tây, một phần quay góc sang mặt tường phía Bắc, một phần nhỏ lòng di tích, chúng tôi đã xác nhận đây là phần còn lại của một ngôi đền thờ Chăm Pa mà chúng ta quen gọi là tháp Chàm. Về kiến trúc thì một ngôi đền, tháp thờ Chăm Pa sẽ có bình đồ vuông hoặc chữ nhật với phần nền, móng được gia cố kĩ lưỡng, vững chắc, tiếp đến là phần đế, sau nữa là tường hay còn gọi là thân tháp, trên cùng là bộ mái tháp. Giữa đế và thân tháp cũng như giữa thân và mái tháp thường có các đường giật cấp làm ranh giới. Ở di tích này, khu vực khai quật cũng đã làm rõ các cấu trúc nền, móng và một phần thân tháp. Bây giờ chúng ta sẽ đọc kiến trúc này từ dưới lên trên.
2.1. Nền:
Được tạo bởi một loại hợp chất gồm đất, đá nhỏ, gạch, ngói vụn và có thể trộn với một loại dầu thực vật (loại dầu làm nguyên liệu chủ yếu chế tạo chất kết dính xây dựng các kiến trúc gạch Chăm Pa xưa). Hợp chất này được đổ xuống hố nền và được đầm rất chặt tạo nên một lớp nền vững chắc trước khi xây móng. Lớp nền có màu xám đen. Ở bên ngoài mặt kiến trúc phía Tây, chúng tôi xác định lớp nền dày 40cm.
2.2. Móng
Được xây bằng loại gạch hình chữ nhật (loại gạch chiếm số lượng lớn nhất, phổ biến tại di tích), kích thước trung bình 32x18x6,5 (cm), được tính từ hàng gạch thứ 1 đến hàng gạch từ 1-11, cao 65cm, Các viên gạch được xây nằm ngang, đều nhau, không thấy có gạch vỡ, không giật cấp, đến viên số 10 giật ra 5cm để bắt đầu phần đế tháp.
2.3. Đế tháp
Được xây bằng loại gạch chữ nhật giống như gạch xây móng. Bắt đầu từ hàng 12 đến hàng 23, cao 72cm. Từ phần đế tháp bắt đầu có kĩ thuật giật gạch tạo những đường nét có tính trang trí mặt tháp.
Các lần giật:
- Hàng 12, 13, 14 xây phẳng giật vào so với hàng 11 là 18cm
- Hàng 15 xây lên, hàng 16, 17,18 giật vào 4cm và được xây bằng loại gạch vát xiên, đến hàng gạch 19 xây bằng loại gạch kiểu chậu úp tạo ra một mặt xiên được kết thúc bằng một đường lượn mềm mại tạo cảm giác chân đế vững chắc nhưng cũng rất điệu đàng.
- Hàng 20 được xây thẳng lên kết thúc phần đế tháp.
2.4. Thân tháp hay tường tháp.
Cũng được xây bằng loại gạch hình chữ nhật như các phần đế và móng. Phần tường còn lại từ hàng gạch 23 đến 38, cao 106cm. Phần chân tường gồm 4 hàng gạch từ 24 đến 27 được xây giật cấp, hai hang gạch 22 và 23 được xây thẳng lên làm ranh giới giũa thân và đế tháp. Tường dày 150cm.
Các lần giật:
- Hai hàng 24 và 25 giật ra 5cm
- Hàng 26 giật vào 4cm
- Từ hàng 27 trở lên xây phẳng
Nhìn toàn bộ phần xây giật cấp của đế và phần chân tường hay thân tháp chúng ta dễ dàng nhận thấy phần dưới của ngôi tháp được tạo các đường trang trí bằng cách xây giật gạch đẩy ra đưa vào nhịp nhàng tạo một nét kiến trúc uyển chuyển nhưng vững chắc. Với phần chân đế như thế này tôi chắc chắn phần diềm mái, ranh giới giữa thân tháp và mái tháp cũng được xây giật gạch như vậy, thậm chí còn có những họa tiết khác bởi chúng tôi đã phát hiện một số viên gạch có những nét tạo hình tính đặc biệt trong hố khai quật. Nếu vậy, mặt tường tháp sẽ rất đẹp, với những đường gạch trang trí nhịp nhàng tạo nên một giai điệu kiến trúc thanh thoát và linh thiêng.
2.5. Cửa giả phía Tây.
Chúng ta biết một kiến trúc đền thờ, tháp thờ Chăm Pa có cửa chính ra vào ở phía Đông, các mặt tường còn lại Tây, Nam, Bắc đều không có cửa mở mà chỉ là các cửa giả bằng cách tạo một khối nhô ra khỏi mặt tường. Ở các ngôi đền tháp có niên đại muộn từ thế kỉ 8 trở về sau, các cửa giả được làm nhô hẳn ra khỏi tường tháp và có cả các trụ cột, hai bên thường có các bức tượng tròn hoặc phù điêu thể hiện các vị thần, hộ pháp hay tu sĩ. Ở kiến trúc Đồng Miễu này, phần nhô cửa phía Tây rất nhỏ, chỉ 4cm, chân cửa hơi choãi ở phần đế tháp. Bề rộng của cửa 90cm, cửa cũng được xây giật cấp theo phần đế và thân tháp. Phải rất tinh mắt và hiểu cá kiến trúc Chăm Pa cổ mới có thể nhận ra. Vì chưa khai quật hết di tích nên chúng tôi chưa biết về các cửa giả còn lại, nhưng tôi tin rằng các cửa giả còn lại cũng tương đồng như cửa giả phía Tây. Đây cũng là một nét riêng có, đặc trưng của di tích Đồng Miễu. Và đây cũng có thể được coi là tiêu chí của những ngôi đền tháp Chăm Pa có niên đại sớm, trước TK 6.
2.6. Kết cấu lòng tháp
Đây là một ngôi tháp có kết cấu lòng rất phức tạp. Phần nền ở vách Tây dày 35cm, chất liệu cũng giống như phần nền ở chân móng bên ngoài tháp. Trong khi đó nền vách Nam là 90cm, phía Bắc cũng vậy. Đây là điều rất khó hiểu khi nghiên cứu cấu trúc lòng tháp này.
Phần móng phía Tây cao 55cm, gạch giống như gạch xây tường và móng tháp, từ hang số 1 đến hàng số 6. Phần đế cao 90cm, từ hang 7 đến hàng gạch 18, phần này xây không nghiêm túc lắm, nhiều nơi trùng mạch, một thứ tối kị trong kĩ thuật xây gạch.
Phần thân cao 110cm, từ hàng gạch 19 đến hàng gạch 31, phần này xây rất nghiêm chỉnh với kĩ thuật câu gạch, một viên đặt theo chiều dài tiếp đến là viên gạch đặt theo chiều rộng, lặp đi lặp lại cho đến hết.
Ở phía Nam lòng tháp, phần nền cao 90cm, chất liệu như các nền khác. Phần móng 1 mét, thần thân và đế không hề xuất lộ mà trên móng chỉ thấy một lớp dày gạch đổ, dường như công trình bị sụp đổ khi xây dựng lại. Đặc biệt phần móng ở đây được xây bằng loại gách có kích thước lớn 43x24x8,5 (cm), gạch màu vàng nhạt, chất liệu xốp, độ nung không cao, lõi gạch không đen. Có một hiện tượng khá đặc biệt, tại góc Tây Nam có một trụ gạch xây ốp vào vách tường phía Tây, câu vào vách Nam với loại gạch lớn, màu vàng nhạt giống như gạch xây móng phía Nam và trụ phía Bắc. Điều này chứng tỏ trụ gach này xây sau tường phía Tây và cùng thời với móng, tường phía Nam. Trụ có chiều cao 2 mét, chân móng rộng 50x50 (cm), cao 1 mét, phía trên, phần gắn vào tường phía Tây được thu giật vào, khoảng giữa chân móng và thân trụ có một phần chỉ nhồi hợp chất gạch vụn, đá, đất sét. Toàn bộ phần này cao 110cm, rộng 40x40 (cm). Hiện tượng này cho thấy trong khi xây trụ đã có sự đổ vỡ và những người thợ đã gắn hợp chất vào để gia có trụ gạch. Trụ này có tác dụng như một trụ áp tường để làm tăng độ vững chắc cho phần tường phía Nam. Trụ này xây sau phần tường phía Nam. Hiện tường này cùng với việc trong lòng kiến trúc được nhồi chặt bằng một hợp chất gạch vỡ (gạch tương tự như gạch xây tường phía Tây và gạch đổ bên ngoài kiến trúc), đất sét, mảnh ngói, mảnh gốm, đá nhỏ và dầu thực vật tạo nên một khối vững chắc trong lòng tháp khiến chúng tôi đi đến nhận định: Ngôi tháp này được xây lần đầu với đại diện là bức tường phía Tây, sau đó vì lí do nào đó ngôi tháp bị đổ, chủ nhân của kiến trúc tiếp tục cứu vãn công trình bằng cách gia cố lòng tháp bằng cách nhối chặt bằng hợp chất của vật liệu của công trình cũ, xây thêm các trụ ốp tường phía góc Tây Nam và trụ ốp tường phía Bắc, đồng thời xây thêm hai hàng gạch ốp vào tường Tây bằng chính loại gạch đã xây tháp lần đầu và chính lớp xây thêm này cũng bị đổ vỡ nhiều và chủ nhân lại lấp đầy chỗ vỡ bằng hợp chất gạch, đá vụn, đất sét trộn với dầu thực vật, hợp chất này như một loại béton. Hợp chất dạng này chúng tôi thường gặp ở nhiếu di tích khác như An Xá (Quảng Trị), Tháp Bà (Hội An), Cát Tiên (Lâm Đồng)…
Dấu tích cấu trúc nền, móng và một phần thân tháp
Tóm lại, đây là một loại hình kiến trúc đề tháp Chăm đặc biệt, quy mô tháp nhỏ, mặc dù chỉ mới xuất lộ gần hết mặt Tây của di tích nhưng chúng tôi cũng có thể đưa ra các số đo của cả cạnh Tây là 620cm, nếu tháp có bình đồ vuông thì các cạnh còn lại cũng chỉ như vậy. Căn cứ vào kích thước của các cạnh tháp chúng tôi có thể hình dung tháp này nếu được xây hoàn chỉnh sẽ có độ cao tối đa 15-16 mét. Nghiên cứu kĩ cấu trúc tháp cả trong lẫn ngoài chúng tôi nhận thấy có 2 lần xây dựng, tại phần thân tháp gần góc Tây Bắc lộ diện hai lớp gạch xây ốp vào mặt tường đã có trước, việc xây ốp như vậy chỉ để tăng bề dày của tháp nhằm chịu một lực đè, nén từ trên xuống. Chúng tôi giả định đây là lần xây dựng thứ 2, lần này có thể xây cả bộ mái bằng gạch nên cần gia cố chiều dày của tường. Như vậy lần xây đầu, ngôi tháp có thể chỉ được lợp ngói với bộ khung mái bằng chất liệu nhẹ như gỗ, tre. Một đặc điểm thú vị nữa của ngôi tháp là toàn bộ mặt tường tháp, cả trong lẫn ngoài đều được quét một lớp dầu thực vật màu đen. Lớp dầu này có tác dụng như lớp sơn tường để chống ngấm và tăng cường sự liên kết của các viên gạch mặt tường. Hiện tượng này không thấy có ở các di tích Chăm Pa khác thời kì sau. Đây cũng là một tiêu chí của tháp Chăm thời kì đầu, niên đại sớm TK 4-5. Căn cứ vào loại gạch, chất liệu gạch khác nhau của hai lần xây dựng, căn cứ vào vật liệu ngói và gốm trong lớp nhồi lòng tháp của lần xây sau chúng dần đi đến giả thiết lần xây dựng đầu vào khoảng TK 4, lần sau muộn hơn, khoảng TK 5. Ở phần đặc trưng di vật chúng tôi sẽ đưa ra những nhận xét rõ hơn.
3. Đặc trưng di vật
3.1. Gạch
Cũng như các đền tháp Chăm Pa khác, ở Đồng Miễu có khá nhiều loại hình gạch, từ gạch hình chữ nhật nguyên vẹn đến các loại hình thang, cắt góc, vát xiên, vê tròn, úp chậu, giật cấp, có xuất hiện một vài viên gạch có nét tạo hình lạ, dường như đó là một phần của motif hoa văn nào đó trên diềm mái, vì chưa có đủ các viên gạch đặc biệt đó để dựng lại hoa văn nên chúng tôi tạm nhận định như vậy.… Các nhà khảo cổ đã chọn một số những viên gạch tiêu biểu cho di tích để nghiên cứu và phục vụ việc trưng bày bảo tàng. Tổng số các viên gạch là 87 gồm nhiều loại hình khác nhau. Bên cạnh những đặc điểm chung của gạch Chăm Pa như nguyên liệu được làm kĩ, có trộn nhiều vỏ trấu, thực vật như cành cây chặt nhỏ, nhiều loại hình khác nhau như cắt góc kiểu chữ L, giật cấp, hình thang, mài mỏng, vát một đầu, vê tròn một đầu…để phục vụ cho kĩ thuật xây công trình cho phù hợp với các họa tiết hoặc giật cấp, kẻ tường… thì gạch ở đây có nhiều khác biệt như gạch có lõi đen, một hiện tượng phổ biến của gạch Chăm Pa lại xuất hiện rất ít ở Đồng Miễu, điều này chứng tỏ có sự khác nhau về kĩ thuật nung gạch thời kì đầu với thời kì sau này. Có thể thời kì đầu của việc xây dựng các đền tháp bằng gạch kĩ thuật nung gạch chưa thật nhuần nhuyễn, Gạch ở đây có độ cứng và màu sắc không đều, có viên quá cứng, gần như sành, có viên lại quá mềm, bở. Xương gạch viên thì đỏ sẫm, viên đỏ nhạt, viên thì vàng nhạt, có viên lại màu nâu đen. Gạch có lõi đen ít và cũng không đều về độ cứng, có viên phàn lõi đen cứng như sành, có viên lại đen nhạt và “mềm”. Đồng thời với sự lúng túng, chưa nhiều kinh nghiệm trên chất liệu gạch của “thủa ban đầu” ấy là kĩ thuật xây dựng cũng chập chững và hậu quả là đổ vỡ công trình, phải làm đi làm lại và dường như công trình này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
3.2. Đá
Hiện vật đá ở đây chỉ duy nhất có một viên cuội tự nhiên tròn, nhẵn. Người ta thường thấy những viên cuội như thế này trong các ngôi đền thờ và được gọi là đá thờ hay đá thiêng, rất may mắn là trong lớp đổ vỡ của những viên gạch nhồi lòng tháp của lần xây sau, chúng tôi phát hiện một phần của viên gạch có khoét lỗ tròn tên mặt gạch đủ để dặt viên đá này lên, tạo thành một bộ liga-yoni đơn giản. Hiện tượng này chúng tôi đã thấy xuất hiện ở di tích 1A Cát Tiên (Lâm Đồng). Hiện vật này chắc chắn là sản phẩm của lần xây dựng thứ nhất, TK 4.
3.3. Gốm
Phát hiện 97 mảnh trong hố khai quật và 13 mảnh sưu tầm trên mặt đất khu vực xung quanh, song lại vô cùng quan trọng cho việc định niên đại của di tích. Toàn bộ những mảnh gốm trong hố khai quật, chủ yếu là trong lớp hợp chất nhồi lòng tháp cho lần xây sau. Một số mảnh gốm còn dính lớp đất sét, sạn cát, sỏi nhỏ có dấu dầu thực vật. Gốm ở đây chủ yếu là những mảnh vỡ của nồi, vò và kendy. Ngoại trừ 3 mảnh gốm văn in ô vuông có màu đỏ, xương mịn, còn lại gốm đều có màu xám đen, xương gốm đen lẫn nhiều cát, sạn nhỏ, gốm khá thô, độ nung thấp, chất liệu và đặc trưng gốm này khá tương đồng với gốm ở H1, độ sâu 1,79 mét cuộc khai quật Thành Hồ năm 2009. Tổng số có 62 mảnh trong khai quật lòng tháp, 35 mảnh bên ngoài tháp, sát chân tường phía Tây. Trong số gốm lòng tháp có 5 mảnh miệng, 1 mảnh đế, 1 cổ gốm, 1 vòi kendy, 2 mảnh vai còn lại là mảnh thân. Đặc biệt có 10 mảnh gốm dày, áo gốm màu trắng ngả bạc, xương màu đỏ, chất liệu thô lẫn nhiều cát, sạn, đây là những mảnh gốm vỡ ra từ một cái vại hoặc lu lớn. Với chất liệu gốm như đã nêu, cùng sự có mặt của gốm văn in ô vuông kiểu Hán (Chúng tôi nói là văn in kiểu Hán chứ không nói là gốm Hán, bởi văn in này có độ săc nét không cao, in nông, xương gốm không đanh như gốm Hán thật, đây là sản phẩm bắt chước, ăn theo gốm Hán đã có từ trước đó, TK 2-3. Chính vì nó là kiểu Hán, bắt chước nên có niên đại muộn hơn, khoảng TK 4). Kết hợp với kết quả nghiên cứu kiến trúc ở trên, chúng tôi nhận định lần xây tháp thứ nhất có niên TK 4, lần sửa chữa, thậm chí xây lại tháp sau đó vào khoảng TK 5.
Với những đặc trưng di vật, từ vật liệu xây dựng như gạch, đến các loại gốm, đá, trong đó các chỉ định về gốm là rất quan trọng, việc chỉ có gốm thô, xương pha nhiều sạn, cát đi cùng với những mảnh gốm văn in ô vuông kiểu Hán đủ để đưa ra niên đại đầu của ngôi tháp này là khoảng TK 4.
Một số hiện vật khai quật tại di tích
4. Tạm kết
Cuộc khai quật đã mang lại những kết quả khoa học và nguồn tư liệu tốt về văn hóa Chăm Pa ở Phú Yên, đã xuất lộ một phần nhỏ của một kiến trúc đền tháp Chăm Pa được xây dựng trong một thung lũng nhỏ cách di tích thành Hồ nổi tiếng 3km, cách sông Ba 1,5km.
4.1. Về khoa học
Đây là di tích đền tháp xây gạch Chăm Pa có niên đại sớm nhất được biết đến lần đầu tiên trong văn hóa Chăm xưa. Di tích này chưa bao giờ được các nhà khoa học Pháp biết đến. Từ trước đến nay, các nghiên cứu về kiến trúc Chăm Pa đều cho rằng trước TK 7, có lẽ Chăm Pa chưa có công trình đền tháp xây gạch, mà chỉ là các kiến trúc sử dụng vật liệu nhẹ như gỗ, tre… Việc phát hiện di tích tháp Đồng Miễu đã cho chúng ta suy nghĩ khác hơn, rằng từ TK 4 người Chăm đã xây dựng đền tháp bằng gạch cho dù cả kĩ thuật sản xuất gạch đến trình độ xây dựng còn chưa hoàn thiện, thậm chí non nớt nhưng đó có thể là những viên gạch đầu tiên tạo nền móng cho những tuyệt tác kiến trúc Chăm Pa sau này.
4.2. Giá trị Lịch sử-Văn hóa
Vị trí của ngôi tháp phần nào chứng minh cho lý thuyết về các vùng Chăm, các lãnh thổ Chăm trong lịch sử của cố GS. Trần Quốc Vượng, đây có lẽ chính là nơi các chủ nhân Chăm xưa chọn làm khu Thánh địa, tuy nhiên có thể do còn chưa nắm bắt đầy đủ và chưa thật có kinh nghiệm nên việc ứng xử với loại vật liệu mới là gạch đã không được như ý muốn. Công trình bị đổ, vỡ nhiều lần, quy mô nhỏ lại ở vùng có nhiều lụt lội nên đã không có nhiều các công trình được xây dựng thêm. Vào thời kì sau những cuộc nội chiến giữa các tiểu vùng, tiểu quốc Chăm đã làm suy sụp cả Thành Hồ lẫn Thánh địa của nó. Dù sao mặc lòng, di tích này vẫn là một điểm sáng trên bản đồ di tích Chăm ở miền Trung Việt Nam với giá trị lịch sử-văn hóa rất lớn và đáng trân trọng.
4.3. Phát huy di tích
Phú Yên là một miền đất chứa đựng nhiều di tích Chăm Pa, ngoại trừ Tháp Nhạn sừng sững đang đứng đó và tháp Phú Lâm có niên đại muộn đang buồn bã hắt hiu vì chưa được quan tâm thì trong lòng đất Phú Yên còn chứa đựng nhiều di tích rất quan trong, đơn cử như di tích Chăm ngoài Cù lao Mái Nhà, Hòn Chùa, mấy chục giếng đá ở thôn Xuân Dục, bên cạnh đó là Hòn Tháp, Thành Hồ… Và hiện nay có thêm Đồng Miễu. Có thể xây dựng một tour du lịch về Chăm Pa ở Phú Yên: Hòn Chùa - Xóm Giếng Xuân Dục - Hòn Tháp - Tháp Nhạn - Thành Hồ và kết thúc là Đồng Miễu với sự thông hiểu di tích và văn hóa Chăm của hướng dẫn viên du lịch cũng như một hệ thống cơ sở vật chất tạm tốt cho các di tích, ngành du lịch Phú Yên có thể giữ khách thêm ít nhất một đêm nữa. Đưa người dân quanh di tích vào cuộc, di tích sẽ mang lại lợi ích cho họ và khi đó không cần tuyên truyền, người dân sẽ chăm lo, bảo vệ di tích vì đó là một phần quan trọng cuộc sống của họ.
5. Kiến nghị
- Lập quy hoạch, cắm mốc bảo vệ di tích, khuyến cáo chủ đất không xây cất các công trình nhà cửa, trồng cây lưu niên trong khu vực quy hoạch bảo vệ.
- Ngành văn hóa Phú Yên tham mưu cho lãnh đạo tỉnh một kế hoạch tiếp tục khai quật, nghiên cứu di tích Đồng Miễu và khu vực phụ cận. Di dời các công trình nhà ở, chuồng trại hiện đang xâm hại di tích ra khỏi vùng bảo vệ, tiến hành khai quật toàn bộ di tích. Sau khi hoàn thành khai quật phải dựng mái che, giữ gìn bảo quản di tích thành một bảo tàng tại chỗ phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học, giảng dạy, đào tạo và phát huy du lịch trong thời gian tới.
- Xây dựng hồ sơ di tích đề nghị công nhận di sản cấp Tỉnh vừa là để tăng thêm giá trị Lịch sử - Văn hóa, vừa tạo một hành lang pháp lý giữ gìn di sản lâu dài.
TS. Nguyễn Tiến Đông và Đoàn khai quật