2. Phát huy giá trị di tích khảo cổ học
2.1. Những đóng góp của khảo cổ học Việt Nam trong những năm gần đây là rất quan trọng và có ý nghĩa, bên cạnh việc góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lịch sử, văn hóa, qua đó khơi dậy niềm tự hào, góp phần giáo dục, tuyên truyền về truyền thống lịch sử lâu đời, giàu bản sắc của dân tộc Việt Nam. Chính bởi vậy, sau khi nghiên cứu, khai quật, thì việc làm thế nào để có thể phát huy tốt giá trị các di sản khảo cổ học ấy là vấn đề rất quan trọng, là yêu cầu thực tiễn, được các cơ quan quản lý quan tâm chỉ đạo thực hiện và đã đạt được kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn còn khá nhiều “nổi cộm”, bất cập liên quan đến vấn đề này, đòi hỏi sự chỉ đạo, hướng dẫn sát sao, cụ thể hơn, trên cơ sở sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành ở trung ương và địa phương, giữa các nhà nghiên cứu và quản lý, chuyên gia bảo quản trùng tu, tôn tạo, để có thể phuy huy hơn nữa các giá trị di sản văn hóa khảo cổ học. Xuất phát từ mong muốn ấy, chúng tôi xin nêu lên một vài suy nghĩ của mình xung quanh vấn đề này.
Tượng Garuda, di tích tháp Mẫm, Bình Định, khai quật 2014
Trước hết, việc nghiên cứu khảo cổ học thời gian qua, do yêu cầu cụ thể của từng đợt khai quật khác nhau, nên việc phát huy các giá trị được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng ta nhận thấy, kết quả nghiên cứu thể hiện trong việc góp phần quan trọng xây dựng, hoàn thiện các hồ sơ di sản thế giới. Đến nay, thông qua khai quật khảo cổ học, với việc phát lộ các dấu tích kiến trúc cùng hệ thống di vật đi kèm, đã xây dựng các bộ hồ sơ hoàn chỉnh, trình Unesco công nhận các di tích như Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), di tích cô đô Huế (Thừa Thiên-Huế), thành nhà Hồ (Thanh Hóa) là di sản văn hóa của nhân loại. Trong tương lai không xa, sẽ là việc xây dựng và trình các hồ sơ di tích văn hóa Óc Eo, khu di tích Yên Tử (Quảng Ninh). Bên cạnh là các di tích, thông qua khai quật khảo cổ học, hoàn thiện hồ sơ công nhận là di tích quốc gia đặc biệt như khu di tích Lam Kinh (Thanh Hóa), di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc (Hải Dương), di tích chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang)... cùng với số lượng lớn các di tích khác, qua khai quật đã được xếp ở các hạng cấp tỉnh, thành.
Tượng sư tử, di tích Tháp Mẫm, khai quật 2014
Trước các tác động rất tích cực từ kết quả nghiên cứu, khai quật khảo cổ học, nên gần đây, các cơ quan quản lý nhà nước đã có hướng dẫn, nghiêm túc trong các thỏa thuận, đồng ý cho phép trùng tu, tôn tạo theo quy trình “khảo cổ học luôn đi trước một bước”. Khảo cổ học với thế mạnh trong phương pháp nghiên cứu là thông qua nghiên cứu tài liệu địa tầng để tìm hiểu, lý giải về diễn biến các lớp kiến trúc, văn hóa của di tích trong suốt quá trình tồn tại, cung cấp các thông tin khách quan, khoa học, là cơ sở quan trọng mang lại nhận thức sâu sắc về các nền văn hóa cổ, về đời sống cư dân và các dữ liệu về bố cục mặt bằng, kỹ thuật, nghệ thuật, kiến trúc, tôn giáo, tín ngưỡng của thời kỳ. Trên cơ sở đó giúp cho các nhà thiết kế tìm ra giải pháp trùng tu, tôn tạo, phục dựng phù hợp và tối ưu nhất nhằm phát huy giá trị của di tích trong bối cảnh đời sống xã hội hiện đại. Kết quả nghiên cứu khảo cổ học những năm gần đây đã thực hiện tốt những yêu cầu thực tiễn này.
Tương Tu sĩ, khai quật di tích tháp Mẫm, 2014
Thông qua khai quật, nhất là các chương trình lớn, cũng đã thu thập, xây dựng được những bộ sưu tập hiện vật quý, bổ sung hệ thống kho và phát huy trưng bày tại các di tích, bảo tàng ở trung ương và địa phương. Nhờ đó, trong những năm qua, bảo tàng, di tích đã trở thành mối quan tâm thường trực hơn của xã hội, nhiều khi là vấn đề “nóng” mang tính thời sự. Tham quan bảo tàng, di tích đang dần trở thành nhu cầu thiết yếu với bộ phận không nhỏ trong xã hội.
2.2. Không thể phủ trong những năm qua, có hiệu ứng khá tích cực trong xã hội “người người làm di sản, nhà nhà làm di sản”, trong đó có tác động từ kết quả các chương trình, các dự án nghiên cứu, khai quật khảo cổ học. Rõ ràng, vấn đề phát huy giá trị di sản văn hóa, trong đó có di tích khảo cổ học đã được quan tâm, gắn với sự phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trước đòi hỏi thực tiễn của công tác phát huy giá trị di sản, trong đó có các di tích khảo cổ học, chúng ta cũng nghiêm túc nhìn nhận những hạn chế, tồn tại cần khắc phục thời gian tới.
Thứ nhất, liên quan đến công tác “hậu khai quật” đó là việc chỉnh lý, xây dựng hồ sơ, báo cáo khoa học, sau đó hiện vật được bàn giao cho bảo tàng địa phương lưu giữ, bảo quản và trưng bày, phát huy giá trị. Trong thực tế, còn nhiều di tích, do nhiều lý do khách quan, sau khi khai quật, quá trình chỉnh lý chậm, ảnh hưởng tới việc hoàn thiện hồ sơ khoa học, thậm chí không có hồ sơ, báo cáo. Hiện vật không được tiến hành phục dựng, bảo quản (các chất liệu đồng, gỗ…) dẫn đến hư hỏng, lãng phí di sản. Chúng tôi đã có dịp khảo sát kho của một số bảo tàng, nhận thấy các bộ sưu tập rất lớn thu được từ công trường khai quật thủy điện Sơn La, thủy điện Lai Châu, thủy điện Yaly (Lung Leng, Kon Tum) bao năm vẫn “đắp chiếu”, chưa hề được bảo quản, phát huy, đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Thật đáng tiếc, nếu như các bộ sưu tập quý hiếm đó chưa hề có kế hoạch phục dựng, bảo quản và phát huy trong các cuộc trưng bày tại địa phương hay trưng bày chuyên đề tại bảo tàng quốc gia.
Thứ hai, đó là bên cạnh các chương trình khai quật phục vụ trùng tu, tôn tạo đã phát huy được các kết quả khai quật, nhưng vẫn còn nhiều công trình, các số liệu do các nhà khảo cổ học cung cấp không được sử dụng, coi việc khai quật làm vì, làm cớ cho xong, dẫn đến tình trạng nhiều di tích sau khi trùng tu, tôn tạo đã mắc những sai lầm nghiêm trọng do không dựa vào các yếu tố nguyên gốc, với các bình đồ kiến trúc từ hố khai quật khảo cổ học, nên làm sai lệch, đã bị dư luận xã hội lên tiếng, phản đối.
Thứ ba, đó là những hạn chế trong in ấn, xuất bản báo cáo, chuyên khảo công bố kết quả nghiên cứu, khai quật. Đây là tình trạng khá phổ biến, bởi rất ít các công trình sau khi khai quật, báo cáo được in ấn, xuất bản, công bố thông tin, cũng là hạn chế ảnh hưởng đến việc phát huy giá trị của di tích tích. Trong những năm gần đây, trong quá trình giao lưu và hợp tác quốc tế, chúng ta đang tiếp cận theo qui trình là nghiên cứu, khai quật - chỉnh lý - phục dựng - bảo quản - hội nghị, hội thảo - trưng bày, phát huy giá trị - in ấn, xuất bản báo cáo, chuyên khảo. Hi vọng, thời gian tới đây, khảo cổ học Việt Nam, với những kết quả đạt được, sẽ hướng tới, từng bước thực hiện qui trình này.
TS. Nguyễn Văn Đoàn