Thứ Bảy, 24/05/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

22/07/2019 15:38 4867
Điểm: 5/5 (1 đánh giá)
Trong những năm gần đây, khảo cổ học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng thông qua tiến hành hàng loạt chương trình nghiên cứu, khai quật qui mô to lớn. Nhiều công trường khai quật khảo cổ học được tiến hành trên phạm vi cả nước, với thời gian thực hiện kéo dài hàng chục năm liên tục, diện tích khai quật lên tới cả nghìn m2. Trong quá trình ấy, có thể nói lần đầu tiên huy động được sự tham gia đông đảo của toàn giới khảo cổ học Việt Nam, bên cạnh đó, còn có sự hợp tác thường xuyên của các nhà khoa học quốc tế, đã mang lại những kết quả hết sức to lớn và ý nghĩa trên nhiều phương diện. Chính nhờ đó, những thành tựu nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam đạt được trong những năm qua rất đáng kể, theo đó, đã góp phần quan trọng trong việc làm sáng tỏ nhiều vấn đề cơ bản mang tính “thời sự”, bổ sung và khỏa lấp những khoảng trống trong nhận thức về lịch sử văn hóa dân tộc, đồng thời, qua đó đã cung cấp dữ liệu, phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác trùng tu, tôn tạo cũng như đáp ứng các yêu cầu của các dự án dân sinh, phục vụ đời sống kinh tế xã hội đang trên đà phá triển mạnh mẽ.

Trong bài viết này, từ thực tiễn kết quả nghiên cứu, khai quật khảo cổ học trong những năm gần đây, chúng tôi xin nêu lên những suy nghĩ xung quanh những kết quả mà khảo cổ học Việt Nam đã đạt được thời gian qua, theo đó, cũng mạnh dạn đề cập một số vấn đề tồn tại, với mong muốn thời gian tới đây có thể phát huy đầy đủ, toàn diện hơn nữa giá trị các di sản văn hóa thông qua khai quật khảo cổ học Việt Nam trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn đặt ra, đó là nghiên cứu, bảo tồn gắn với phát triển kinh tế, xã hội.

1. Kết quả nghiên cứu, khai quật khảo cổ học những năm gần đây

Chúng tôi không dám và có lẽ, không thể làm được việc đánh giá tổng kết những thành tựu của khảo cổ học Việt Nam trong những năm gần đây, bởi khả năng và giới hạn trong một bài báo. Nhưng chắc chắn, những kết quả nghiên cứu của khảo cổ học Việt Nam trong những năm gần đây, nếu được trình bày, sẽ là một tập báo cáo đồ sộ, với rất nhiều chương, mục, đầy ắp những thông tin bổ ích và lý thú về những hoạt động của các nhà khảo cổ học Việt Nam trên các công trường khai quật trong cả nước. Đó là đánh giá của các nhà quản lý trong các hội nghị, hội thảo. Với chúng tôi, những người làm khảo cổ ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia, có cơ may được tham gia và gắn bó với nhiều công trường khai quật, trong đó có nhiều chương trình khá qui mô, phối hợp thực hiện với sự tham gia của các nhà khảo cổ trong nước và quốc tế, chỉ mạo muội, có một vài đánh giá sơ bộ, ban đầu về một vài khía cạnh mà kết quả nghiên cứu của khảo cổ học Việt Nam đạt được trong những năm gần đây.

 

Khai quật di tích Hữu Vu (Lam Kinh, Thanh Hóa)

Trước hết, có thể khẳng định, kết quả nghiên cứu, khai quật khảo cổ học Việt Nam trong những năm gần đây đạt được thành tựu lớn, đáng kể. Theo đó, theo phân kỳ của khảo cổ học Việt Nam, kết quả đạt được thể hiện qua nghiên cứu thời tiền sử, sơ sử và các thời kỳ lịch sử, đã góp phần quan trọng, phát hiện và bổ sung đầy đủ hơn tư liệu và nhận thức mới, khẳng định truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời, giàu bản sắc của dân tộc Việt Nam.

 

Xử lý hố khai quật di tích Báo Ân thời Trần (Gia Lâm - Hà Nội)

1.1. Một trong những kết quả nổi bật đầu tiên, đó là giới khảo cổ học Việt Nam rất tự hào, khi cùng các nhà khảo cổ học Nga tiến hành chương trình khảo sát, khai quật và phát hiện địa điểm An Khê với bộ sưu tập hiện vật thời đại đã cũ, phán ánh dấu tích cư trú của con người từ hơn 80 vạn năm cách ngày nay. Chúng ta biết, về vấn đề này, trước đây, vào cuối năm 1960, di tích Núi Đọ được phát hiện, được coi là di tích có niên đại sớm nhất, khoảng 40-50 vạn năm cách ngày nay, thuộc sơ kỳ thời đại Đá cũ với những loại hình công cụ chặt thô, dấu vết chế tác đơn giản, mảnh tước... Tuy nhiên, do hiện vật phát hiện ở sườn núi, không nằm trong địa tầng cùng với dấu vết kỹ thuật chưa rõ nét, không điển hình nên vẫn còn nhiều ý kiến tồn nghi về niên đại của di tích, cho di tích Núi Đọ thuộc về công xưởng chế tác hậu kỳ Đá mới, niên đại muộn hơn rất nhiều. Bên cạnh Núi Đọ, cũng có một số di tích khác, được xác định có khung niên đại tương đồng, nhưng lại chỉ có dấu tích cổ sinh, không có là công cụ hoặc nếu có, dấu vết kỹ thuật cũng mờ nhạt, không đặc trưng. Đây là một dấu hỏi lớn của ngành khảo cổ học Việt Nam suốt một thời gian dài, cho đến trước khi di tích An Khê  được phát hiện vào năm 2014. Tại đây, các nhà khảo cổ học tìm thấy hàng chục địa điểm phân bố xung quanh thung lũng bồn địa xã Xuân An, thị xã An Khê (Gia Lai), cùng bộ sưu tập hiện vật, trong đó có những rìu tay, công cụ mũi nhọn lớn hình khối tam diện điển hình cho sơ kỳ thời đại Đá cũ. Qua nghiên cứu cho thấy tính chất cư trú và xưởng chế tác của người nguyên thủy, với di tồn là bộ công cụ đá, cùng các mảnh tectit (thiên thạch) là cơ sở quan trọng để đối sánh, xác định niên đại từ 77- 80 vạn năm cách ngày nay. Kết quả nghiên cứu, khai quật An Khê được các nhà khoa học tại Hội nghị tiền sử Châu Á-Thái Bình Dương (IPPA) nhóm họp tại Huế tháng 9/2018, đánh giá là một trong những phát hiện khảo cổ học “chấn động”, là minh chứng sinh động và thuyết phục, Việt Nam là một trong những cái nôi sớm xuất hiện của loài người.

 

Khai quật khu di tích Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội)

Cũng trong kết quả nghiên cứu, khai quật thời tiền sử, giai đoạn hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí cũng thu thập, phát hiện hàng loạt di tích, có trữ lượng nghiên cứu lớn, tầng văn hóa dầy 3-4m, chứa những trầm tích văn hóa có khung niên đại kéo dài từ hậu kỳ Đá cũ đến các thời kỳ Lịch sử, nhưng, tập trung nhất trong khung niên đại từ 10.000 đến 5.000 năm cách ngày nay, đưa về bảo tàng những bộ sưu tập đồ sộ hiện vật công cụ đá, đồ gốm, những di chỉ cư trú, di chỉ xưởng sản xuất và di chỉ mộ táng. Đó đều là những công trường khai quật lớn nhất từ trước đến nay, phạm vị khảo sát và khai quật lên tới hàng chục nghìn m2. Nhiều chương trình khai quật phục vụ các dự án xây dựng thủy điện ở khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên như: thủy điện Sơn La, thủy điện Lai Châu, thủy điện Trung Sơn (Thanh Hóa), thủy điện Yaly (Lung Leng, Kon Tum). Thông qua đó, chúng ta đã bổ sung thêm những điểm nhấn mới trên bản đồ khảo cổ học Việt Nam vào cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, với những văn hóa khảo cổ mới được xác lập, phản ánh địa bàn cư trú rộng lớn của các cộng đồng cư dân tiền sử từ vùng núi cao Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tiến dần xuống chuẩn bị cho quá trình định cư lâu dài và ổn định ở vùng châu thổ các con sông lớn, tiến ra các cửa sông, ra vùng đồng bằng, cận biển, đảo… là nền tảng cho quá trình chuẩn bị cơ sở vật chất, tạo lập các trung tâm đô thị cổ, từng bước tạo sự chuyển biến trong cơ cấu phân công lao động, sản xuất, xuất hiện những khu vực trọng điểm phát triển kinh tế, xã hội do các thủ lĩnh đứng đầu, tích lũy cơ sở vật chất, tạo sự phân tầng trong xã hội, làm tiền đề thúc đẩy sự hình thành sớm của các quốc gia cổ đại ở thời kỳ sau.

1.2. Với thời kỳ hình thành nhà nước đầu tiên, kết quả nghiên cứu khảo cổ học cũng đạt nhiều kết quả đáng kể, với những phát hiện mới về hệ thống di tích và di vật, góp phần “giải ảo” nhiều vấn đề lịch sử, văn hóa gắn với các địa danh, các nhân vật, sự kiện lịch sử được phản ánh qua các truyền thuyết, giai thoại, cổ tích... Trong những năm thập niên 60-70 của thế kỷ XX, giới khảo cổ học Việt Nam, do GS.VS Phạm Huy Thông, đã tích cực tham gia góp phần trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước bằng chương trình nghiên cứu lớn về thời đại Hùng vương dựng nước, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, về truyền thống lịch sử lâu đời, đã khích lệ tinh thần của đồng bào và chiến sĩ cả nước. Đây được coi là một trong những thành tựu quan trọng mà khảo cổ học Việt Nam đạt được trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tiếp nối truyền thống ấy, trong những năm gần đây, khảo cổ học tiếp tục có các chương trình nghiên cứu, khai quật, bổ sung tư liệu và nhận thức mới về quá trình hình thành nhà nước Văn Lang - Lạc, với vấn đề cội nguồn, bản sắc văn hóa, cương vực, biên giới, lãnh thổ, đặc biệt, đặt nhà nước Văn Lang - Âu Lạc trong mối quan hệ với các quốc gia cổ đại láng giềng (Champa, Phù Nam), trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á… Bên cạnh đó, khảo cổ học cũng đặc biệt chú trọng việc nghiên cứu, mở rộng địa bàn về khu vực miền Trung và miền Nam với việc tiếp cận, nghiên cứu, tiến hành nhiều đợt khai quật các di tích để tìm hiểu về vương quốc Champa, Phù Nam. Theo đó, đã tiến hành các chương trình khai quật và đạt được kết quả hết sức khả quan với nhiều phát hiện mới, từng bước khôi phục diện mạo đầy đủ hơn về văn hóa Sa Huỳnh với sự hình thành nhà nước Champa ở miền Trung; về văn hóa Óc Eo với sự hình thành vương quốc Phù Nam. Từ kết quả đó đã có sự nhìn nhận, đánh giá toàn diện hơn về vị trí, vai trò và các mối quan hệ, tác động, ảnh hưởng qua lại giữa các quốc gia cổ đại trên lãnh thổ Việt Nam đương thời. Nhờ đó, bức tranh thời kỳ Sơ sử Việt Nam được khảo cổ học khắc họa rõ nét và đầy đủ, khách quan, khoa học hơn nhiều so với các giai đoạn nghiên cứu trước đó, phản ánh sự đa dạng và thống nhất của lịch sử văn hóa Việt Nam.

1.3. Với nghiên cứu khảo cổ học các thời kỳ lịch sử trong những năm gần đây diễn ra mạnh mẽ, với số lượng lớn các đợt khai quật, có phạm vi lớn, thời gian thực hiện dài, có chương trình tới hàng chục năm liên tục, kết quả đạt nhiều “kỷ lục” chưa từng có. Trước tiên là các nghiên cứu về thời kỳ 10 thế kỷ đầu công nguyên, gắn với quá trình 1000 năm chống Bắc thuộc, bên cạnh các cuộc khởi nghĩa chống lại ách độ hộ, xâm lược, là cuộc đấu tranh chống lại sự đồng hóa, nô dịch về văn hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc. Bằng những chứng cứ khoa học, qua hiện vật thu thập trong địa tầng, khảo cổ học đã có những khám phá mới, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa Việt Nam được nuôi dưỡng, tích tụ qua hàng ngàn năm lịch sử. Trong chương trình hợp tác nghiên cứu Việt - Nhật tại di tích Luy Lâu (Bắc Ninh), các nhà khảo cổ học Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã phát hiện được hàng nghìn mảnh khuôn đúc trống đồng, khẳng định Luy Lâu là một trung tâm đúc trống đồng Đông Sơn của các cư dân Việt cổ. Đây là phát hiện quan trọng, là bằng chứng sinh động, thuyết phục, khẳng định Việt Nam là quê hương của trống đồng Đông Sơn, một vấn đề tốn khá nhiều giấy mực của giới nghiên cứu suốt từ đầu thế kỷ XX tới nay. Đáng chú ý hơn, những mảnh khuôn đúc ấy được tìm thấy trong tầng văn hóa có niên đại thuộc thế kỷ 4 sau công nguyên cũng là phát hiện mới quan trọng. Chúng ta đều biết, hiện nay, về cơ bản, các quan điểm nghiên cứu đều thống nhất khi xác định văn hóa Đông Sơn, trong đó có trống đồng, tồn tại trong khoảng từ thế kỷ 7-5 trước công nguyên đến thế kỷ 1-2 sau công nguyên, kết thúc cùng với quá trình xâm lược, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc. Như vậy, qua phát hiện này, rõ ràng sự tồn tại của văn hóa Đông Sơn đã kéo dài hơn, nên sẽ là vấn đề rất lý thú để có thể xem xét, đánh giá về niên điểm kết thúc của văn hóa Đông Sơn thời gian tới.

 

Khai quật di tích Hải Vân Quan (Thừa Thiên - Huế) 2018

Kết quả nghiên cứu khảo cổ học thời kỳ này, đáng kể là các đợt khai quật tại di tích thành Cổ Loa trong nhiều năm với các khám phá mới về phạm vi, qui mô các vòng thành, quá trình, kỹ thuật xây dựng, qua đó khẳng định giá trị to lớn của một trong những tòa thành quân sự cổ xưa nhất của Đông Nam Á. Các nghiên cứu về Tràng An, về Hoa Lư (Ninh Bình), tiếp tục bổ sung những dữ liệu quan trọng khẳng định sự tồn tại của kinh đô của quốc gia Đại Cồ Việt thế kỷ X, mở đầu cho nguyên nguyên độc lập dân tộc với những đặc sắc mang đậm bản sắc Việt cổ qua kiến trúc, kỹ thuật, nghệ thuật còn lưu dấu trên gạch ngói đỏ tươi trang trí hình rồng, phượng, uyên ương lấy lên từ lòng đất Hoa Lư.

Bước vào kỷ nguyên độc lập, thịnh trị của quốc gia Đại Việt, gắn với các triều đại Lý-Trần-Lê, có thể nói, khảo cổ học những năm gần đây đã đẩy mạnh nghiên cứu, tiến hành một cách có hệ thống bài bản trên qui mô lớn, theo đó làm sáng tỏ, minh định nhiều vấn đề quan trọng, khoả lấp nhiều khoảng trống trong nhân thức về lịch sử, văn hóa dân tộc.  Đáng kể nhất là các nghiên cứu về kinh thành Thăng Long, làm rõ hơn vị trí, qui mô và quá trình biến đổi các vòng thành, đặc biệt là Hoàng thành Thăng Long, không gian trọng yếu nhất của các triều đại phong kiến Lý-Trần-Lê, có liên quan trực tiếp tới các đời vua, hoàng hậu, hoàng tộc với các sự kiện, các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, lâu nay vốn được coi là chốn “thâm cung bí sử”.

 

Đầu rồng trang trí kiến trúc, di tích Hoàng thành Thăng Long

Bên cạnh đó là các chương trình nghiên cứu, khai quật lớn tại di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc nhà Trần (Hải Dương), di tích Lam Kinh nhà hậu Lê (Thanh Hóa), di tích thành nhà Mạc (Hải Phòng), di tích cố đô Huế, thành cổ Sơn Tây…

Tiềm năng di sản văn hóa biển, đảo rất to lớn do Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược, án ngữ trên con đường hàng hải nối liền giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, bờ biển dài 3.260km, gần 3.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ ở gần và xa bờ. Từ sớm, Việt Nam tham gia giao thương quốc tế trên biển, trong đó mặt hàng xuất nhập khẩu quan trọng nhất là đồ gốm sứ. Do vậy, có thể nói, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng rất lớn trong việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dưới nước, đặc biệt là hệ thống bến cảng cổ ven biển và những con tàu cổ đắm trên vùng biển Việt Nam. Chính bởi vây, trong những năm gần đây, khảo cổ học quan tâm, chú trọng nghiên cứu với những bước đi ban đầu và đạt được kết quả nhất định đáng ghi nhận. Đến nay, khảo cổ học đã tiến hành khai quật 6 con tàu đắm ở vùng biển Việt Nam, gồm  tàu cổ Hòn Cau (Bà Rịa - Vũng Tàu), tàu cổ Hòn Dầm (Kiên Giang), tàu cổ Cù Lao Chàm (Quảng Nam), tàu cổ Cà Mau (Cà Mau), tàu cổ Bình Thuận (Bình Thuận) và tàu cổ Bình Châu (Quảng Ngãi). Bên cạnh đó, cũng đã khảo sát, đánh giá hệ thống thương cảng, tiểu cảng ven bờ, thu thập hàng trăm ngàn hiện vật là hàng hóa chuyên chở, tập trung chủ yếu là gốm sứ Việt Nam, Trung Quốc Thái Lan, có niên đại kéo dài nhiều thời kỳ lịch sử, qua đó góp phần khẳng định vị thế quan trọng của Việt Nam, sớm tham gia giao thương, giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế. Tuy nhiên trước tiềm năng to lớn của di sản văn hóa biển Việt Nam, khảo cổ học thông qua hoạt động thực tiễn, đã kiến nghị đề xuất sự quan tâm hơn nữa của các cơ quan hữu quan trong việc tiếp tục xây dựng và phá triển đội ngũ chuyên gia nghiên cứu khảo cổ học dưới nước, cùng với đó là hoàn thiện xây dựng hệ thống văn bản pháp lý về bảo vệ và phát huy giá trị di sản khảo cổ học dưới nước trong bối cảnh hiện nay.

Tóm lại, kết quả nghiên cứu của khảo cổ học Việt Nam đạt được trong những năm gần đây rất to lớn, có ý nghĩa trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Kết quả ấy, gần đây, trong hội thảo chuẩn bị nội dung cho bộ sách dự kiến tới 30 tập “Quốc sử Việt Nam”, GS Phan Huy Lê, Tổng chủ biên đã đánh giá rất cao những cứ liệu mà khảo cổ học đã nghiên cứu, thu thập trong thời gian qua. Theo đó, các kết quả sẽ là cơ sở quan trọng để nhóm biên soạn kịp thời chỉnh lý, bổ sung vào nội dung chính thức của bộ Quốc sử sẽ xuất bản thời gian tới.

 

TS. Nguyễn Văn Đoàn  

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Hội thảo khoa học “Những phát hiện mới về khảo cổ học thời Tiền sử tại Thái Nguyên và kinh nghiệm trong việc phát huy giá trị hiện vật khảo cổ học tại bảo tàng”

Hội thảo khoa học “Những phát hiện mới về khảo cổ học thời Tiền sử tại Thái Nguyên và kinh nghiệm trong việc phát huy giá trị hiện vật khảo cổ học tại bảo tàng”

  • 20/05/2019 14:45
  • 4009

Nhân dịp kỷ niệm này Quốc tế Bảo tàng 18/5/2019, sáng ngày 16 tháng 5 năm 2019, Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Những phát hiện mới về khảo cổ học thời Tiền sử tại Thái Nguyên và kinh nghiệm trong việc phát huy giá trị hiện vật khảo cổ học tại bảo tàng”.

Bài viết khác

Phát hiện di tích Chăm Pa có niên đại từ thế kỷ thứ 4 tại Phú Yên

Phát hiện di tích Chăm Pa có niên đại từ thế kỷ thứ 4 tại Phú Yên

  • 15/07/2019 09:27
  • 2007

Các hiện vật được phát hiện là Linga có chất liệu bằng gạch nung và Yoni có chất liệu bằng đá; dấu ấn của kiến trúc tháp Chăm với nhiều hình ảnh trang trí giật cấp, giật ra vào...