Thứ Ba, 18/11/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

01/08/2017 00:00 4010
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Trong mặt bằng tổng thể khu trung tâm di tích Lam Kinh, bên cạnh các toà điện có qui mô to lớn với vị trí đặc biệt quan trọng như Chính Điện, Thái Miếu và các công trình kiến trúc phụ cận khác, ta thấy xuất hiện hai công trình kiến trúc nữa, đó là Tả Vu và Hữu Vu.

Trong mặt bằng tổng thể khu trung tâm di tích Lam Kinh, bên cạnh các toà điện có qui mô to lớn với vị trí đặc biệt quan trọng như Chính Điện, Thái Miếu và các công trình kiến trúc phụ cận khác, ta thấy xuất hiện hai công trình kiến trúc nữa, đó là Tả Vu và Hữu Vu.

1

Lối vào Khu trung tâm di tích Lam Kinh.

Hai toà Tả Vu và Hữu Vu nằm ở phía trước Chính Điện, bên trong Nghi Môn (Nghinh Môn) - là cổng chính dẫn vào khu trung tâm điện miếu và liền kề với hai phía đông và tây của sân rồng (sân chầu). Trải qua quá trình tồn tại, cũng giống như nhiều công trình kiến trúc ở Lam Kinh, hai kiến trúc này đã hoang phế toàn bộ, chỉ còn dấu vết nền móng ẩn sâu trong khuôn đất hình chữ nhật, cao hơn xung quanh khoảng gần 1m, trên bề mặt còn các tảng đá kê chân cột đã bị xô lệch cùng các loại vật liệu và trang trí kiến trúc phủ men hoàng lưu ly và mảnh gốm sứ ken dày.

2

Hiện trạng khu vực Tả Vu.

Di tích Lam Kinh vốn là đất Lam Sơn, là vùng đất phát tích của nhà Lê, được coi là kinh đô thứ hai của nước Đại Việt thời Lê sau Đông Đô - Thăng Long (Hà Nội). Do tiềm ẩn những giá trị lịch sử/văn hoá vô cùng to lớn về vương triều nhà hậu Lê nên di tích Lam Kinh đã nhận được sự quan tâm của đông đảo nhân dân cả nước, trong đó có các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ.... Tuy nhiên, có thể nói hai toà Tả Vu và Hữu Vu được biết tới rất muộn, mãi tới tận năm 1974 mới thấy xuất hiện trong bản vẽ phục dựng mặt bằng tổng thể di tích, theo đó, nhiều vấn đề liên quan như tên gọi, công năng sử dụng và mối quan hệ với khu điện miếu trung tâm vẫn cần được lý giải.

3

Các chuyên gia khảo sát khu vực Hữu Vu.

4

Các chuyên gia khảo sát khu vực Tả Vu.

Việc nghiên cứu, tìm hiểu về loại hình kiến trúc Tả Vu - Hữu Vu, dường như mới chúng ta mới chỉ biết tới qua ghi chép của sử sách về hai toà Tả và Hữu Vu trong di tích Đại Nội (Huế). Theo Đại Nam hội điển sự lệ,Tả Vu - Hữu Vu có chức năng là nơi phục vụ cho vua (pha chè), nơi các quan đến yết kiến vua (chuẩn bị hành lễ, lễ phục, phẩm phục) của các quan văn (Tả) quan võ (Hữu). Tả Vu và Hữu Vu là hai toà nhà giải vũ, nằm hai bên của điện Cần Chánh. Tả Vu và Hữu Vu được xây dựng vào năm Gia Long thứ 18 (1819) cùng hai nhà Tả phương và Hữu Phương (đến năm Minh Mạng thứ 5 1824 đổi tên là điện Văn Minh và Võ Hiển).

Về bố cục, Tả Vu và Hữu Vu đều có 5 gian hai chái, mái chồng, bên đông và tây cùng hướng vào nhau. Nhà giải vũ bên Tả là Viện Cơ Mật, chái nam là phòng Nội Các, phía đông bắc, sau nhà giải vũ là cửa Đông Các. Chái phía bắc nhà giải vũ bên Hữu là phòng trực Viện Vũ Bị, chái nam là phòng trực Viện Thượng Trà (nơi pha trà dành cho vua). Phía nam các nhà giải vũ đều có hành lang cánh gà nối vào bên Tả, bên Hữu Đại Cung môn, phía bắc các nhà giải vũ cũng có hành lang cánh gà nối vào bên Tả, bên Hữu điện Cần Chánh. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) hai nhà Tả Vu, Hữu Vu được tu bổ. Năm 1996, Tả Vu và Hữu Vu đã được trùng tu, sữa chữa khang trang và đang phát huy tác dụng.

Như vậy, trong lịch sử kiến trúc Việt Nam, cho đến nay, ngoài hai toà Tả và Hữu Vu ở Đại Nội Huế, chúng ta đã biết thêm hai toà Tả và Hữu Vu ở Lam Kinh được xây dựng vào thế kỷ 15, có thể coi đó là niên đại sớm nhất hiện biết (trước thời Lê chưa có). Hiện nay còn có ý kiến khác nhau về tên gọi và chức năng sử dụng. Về tên gọi, có người căn cứ vào doi đất hình chữ nhật, chạy dài theo trục bắc -nam mà cho rằng nên gọi đó là hai toà nhà dạng "giải vũ", có ý kiến căn cứ vào vị trí nằm ở phía trước toà Chính Điện (kiến trúc trung tâm) gọi là nhà "mạc" (mục, hai con mắt)... Về chức năng sử dụng, đều cho chúng có chức năng như hai toà Tả và Hữu Vu ở Đại Nội (Huế) nêu trên, ngoài ra, có thêm chức năng phục vụ việc hành lễ, tế cáo các Thái Miếu, lăng mộ, vì gắn trong không gian của khu điện miếu và lăng mộ của nhà Lê.

5

Gạch ốp trang trí rồng.

6

Đầu ngói trang trí rồng.

7

Đĩa gốm trang trí rồng.

Đại Việt sử ký toàn thư cho biết dưới thời thời vua Lê Hiến Tông năm (1506) “mùa xuân, tháng giêng, có chiếu rằng: từ nay trở đi các việc sửa sang trong cung tường thì định làm thêm lăng miếu và nhà giải vũ (ở Lam Kinh)”. Trong đoạn ghi chép này cũng nhắc tới việc vua về Lam Kinh (2 lần liên tục vào tháng 2 và tháng 4 năm 1506), sau đó ít lâu thì vua mất. Như vậy, qua đoạn ghi chép trên đây cho biết rất có thể 2 kiến trúc Tả Vu và Hữu Vu được xây dựng vào thời kỳ này theo lối nhà giải vũ (nhà dài ?).

Như vậy, từ ghi chép của sử sách cùng với kết quả khảo sát thực địa chúng ta phần nào biết thêm những thông tin liên quan tới hai kiến trúc Tả Vu và Hữu Vu. Những suy luận và nhận xét đó mới chỉ là những giả thiết rất cần được kiểm chứng bằng kết quả nghiên cứu, khai quật khảo cổ học được lấy lên từ lòng đất Lam Kinh.

TS.Nguyễn Văn Đoàn

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Hội thảo khoa học “Những phát hiện mới về khảo cổ học thời Tiền sử tại Thái Nguyên và kinh nghiệm trong việc phát huy giá trị hiện vật khảo cổ học tại bảo tàng”

Hội thảo khoa học “Những phát hiện mới về khảo cổ học thời Tiền sử tại Thái Nguyên và kinh nghiệm trong việc phát huy giá trị hiện vật khảo cổ học tại bảo tàng”

  • 20/05/2019 14:45
  • 4628

Nhân dịp kỷ niệm này Quốc tế Bảo tàng 18/5/2019, sáng ngày 16 tháng 5 năm 2019, Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Những phát hiện mới về khảo cổ học thời Tiền sử tại Thái Nguyên và kinh nghiệm trong việc phát huy giá trị hiện vật khảo cổ học tại bảo tàng”.

Bài viết khác

Kết quả khai quật di tích Tả Vu và Hữu Vu (Lam Kinh, Thanh Hóa)

Kết quả khai quật di tích Tả Vu và Hữu Vu (Lam Kinh, Thanh Hóa)

  • 01/08/2017 00:00
  • 2264

Trước khi khai quật, khu vực được xác định là vị trí của hai toà Tả và Hữu Vu là hai doi đất hình chữ nhật, nền khá bằng phẳng, cao hơn bề mặt sân rồng khoảng 1m. Vào các năm 1996, 1997, khu vực này đã được đào thám sát, trên cơ sở đó, năm 2004 Bảo tàng Lịch sử quốc gia tiến hành khai quật qui mô, từ độ sâu 0,2m đến 1,2m xác định được các mặt bằng kiến trúc tương ứng với thời Lê sơ và Lê Trung Hưng, bên trên là dấu tích kiến trúc thời Nguyễn, phản ánh những đợt trùng tu sửa chữa hai công trình kiến trúc này thông qua các vết tích như: bó móng, nền, chân tảng kê cột, đá bó móng và trụ gia cố chân tảng.