Theo thư tịch cổ, Óc Eo nằm trong vùng có tên gọi là Naravaranagara (Na Phật Na). Không ảnh của các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện một con kênh thẳng tắp dài 100 km nối Óc Eo với Châu Đốc; một hệ thống sông cắt ngang, nối trục kênh chính với biển là chuỗi 5 kênh nối Châu Đốc với Angkor Borei (Campuchia).
Từ nhiều nguồn sử liệu ghi chép, các nghiên cứu về không gian cảnh quan, địa môi trường cổ và những di vật khảo cổ tìm thấy có nguồn gốc từ nhiều khu vực trên thế giới như Trung Hoa, Tây Á, Ấn Độ, châu Âu…, các nhà khảo cổ học đã chứng minh khu vực dưới chân núi Ba Thê tiếp giáp với cánh đồng Óc Eo từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7.
Nghiên cứu về biển tiến, biển thoái và các dấu tích gắn liền với yếu tố biển tại khu vực Óc Eo - Ba Thê, các nhà nghiên cứu nhận định khu vực dưới chân núi Ba Thê cách bờ biển hiện nay khoảng 85 km, xưa kia là vùng đất duyên hải. Nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret đã thực hiện nhiều chuyến khảo sát viễn thám bằng máy bay trong những năm 40 của thế kỷ 20, ghi nhận về những dấu tích thương cảng cổ nằm ven chân núi Ba Thê, kết nối với nó là hệ thống lung nước, đường nước lan tỏa ra các khu vực trung tâm khác và đặc biệt là cả một hệ thống dấu tích dòng sông cổ kết nối với khu vực tiền cảng thị Nền Chùa - Kiên Giang để ra biển lớn, xác định vị trí Óc Eo nằm trong một vịnh lớn ở khu vực biển Hà Tiên. Gương đồng thời Đông Hán phát hiện tại Giồng Cát - Cánh đồng Óc Eo năm 2019 (TƯ LIỆU VIỆN KHẢO CỔ HỌC)
Tại thời điểm đó, Malleret đã nhận biết các di tích Óc Eo dưới chân núi Ba Thê có chu vi khoảng 9 km, tương ứng với một hình chữ nhật có cạnh dài 3,6 km và cạnh ngắn là 1,5 km. Quan sát từ trên máy bay, núi Ba Thê được vây quanh bởi vành đai các con sông, lạch lớn nhỏ. Từ đỉnh núi, chúng ta có thể quan sát mọi hướng đi xung quanh của vùng châu thổ. Như thế, Óc Eo được bố trí trở thành trung tâm của một hệ thống giao thông thủy lộ. Sự bố trí này chứng tỏ đã có một chính quyền đủ mạnh và văn minh để hoạch định toàn bộ kế hoạch. Trong bố trí như vậy ở Óc Eo có nhiều điểm giống với bố trí của những thành phố cổ ở Ấn Độ, tiêu biểu là thành phố Mohenjo-daro phát triển vào thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên với việc quy hoạch thành phố và công tác trị thủy. Không ảnh của các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện một con kênh dài 100 km nối Óc Eo với Châu Đốc, một hệ thống sông cắt ngang, nối trục kênh chính với biển là chuỗi 5 kênh nối Châu Đốc với Angkor Borei (Campuchia). Như vậy, toàn thể khu vực này được nối với nhau thành từng phức hệ, nối Óc Eo với Châu Đốc rồi Angkor Borei và từ Óc Eo ra biển.
Nhóm hiện vật có nguồn gốc từ Tây Á phát hiện tại Óc Eo - hiện vật Bảo tàng Lịch sử TP.HCM (LƯƠNG CHÁNH TÒNG)
Địa thế này đã mở cho Óc Eo những đường hàng hải tiếp xúc với bên ngoài đồng thời kích thích cho kinh tế trong vùng phát triển. Những đồng bằng phì nhiêu là nơi nuôi sống cư dân Phù Nam đông đúc và sự phồn vinh của chúng cho đến ngày nay vẫn được chứng minh đầy đủ. Từ đó, khả năng trao đổi về kinh tế trở thành chỗ dựa đồng thời trở thành phương tiện cho các tiếp xúc văn hóa. Như vậy, với điều kiện vị trí như trên thì vấn đề thủy lộ để các đoàn thương nhân đến với Óc Eo đã được đặt ra từ rất sớm. Lộ trình giao thương này có ý nghĩa sống còn đối với một quốc gia như Phù Nam. Trên thực tế, Phù Nam bị chi phối mạnh mẽ bởi con đường hương liệu băng qua vùng Đông Nam Á. Theo đó, có hai hướng chính các thương nhân đến với thương cảng Óc Eo. Các thương nhân từ Nam Ấn sẽ đi dọc vịnh Bengal đến eo biển Kra hoặc eo biển Malacca. Từ hai eo biển này, họ sẽ đi vào vùng biển vịnh Thái Lan và đến tiền cảng Nền Chùa. Từ Nền Chùa, ngược dòng kênh đào cổ Lung Lớn đến Óc Eo. Đối với các thương nhân từ phương Bắc xuống như Trung Quốc, họ sẽ men theo vùng duyên hải miền Trung đến cửa biển hạ lưu sông Mê Kông, ngược dòng sông Tiền, sông Hậu sẽ gặp con kênh đào dẫn đến Óc Eo. Di vật có nguồn gốc Ba Tư tìm thấy tại Óc Eo - hiện vật Bảo tàng Lịch sử TP.HCM (LƯƠNG CHÁNH TÒNG)
Đặc biệt, tại Óc Eo, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được 2 huy chương hay tiền La Mã bằng vàng, 1 hiện vật thuộc thời Antoninus Pius (năm 138-161 sau Công nguyên), 1 hiện vật thời Marcus Aurelius (năm 161 - 180 sau Công nguyên), 1 mảnh gương đồng thời Đông Hán (Trung Quốc, năm 25-220 sau Công nguyên); và gần đây (2019), trong chương trình nghiên cứu khảo cổ học khu di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang) và Nền Chùa (Kiên Giang) tại di chỉ Giồng Cát trên cánh đồng Óc Eo, Viện Khảo cổ học cũng đã tìm thấy 1 gương đồng thời Đông Hán còn khá nguyên vẹn, rất đẹp và tinh xảo, mang tính điển hình cho loại hình di vật gương đồng của thời kỳ này… Giáo sư Hà Văn Tấn lúc sinh thời đã nhận xét: “Những di vật này nói lên rằng Óc Eo đã có những quan hệ thương mại quốc tế rộng rãi”. Nhiều thư tịch cổ đề cập đến hoạt động nhộn nhịp của thương cảng Óc Eo suốt nhiều thế kỷ đầu Công nguyên, biến đây thành nơi đô hội phồn vinh mà các thương nhân Đông Tây lui tới. Mặt khác, vốn nằm trong đất liền khá xa nên đây cũng là nơi tránh bão lý tưởng đồng thời là nơi lưu trú chờ mùa gió thuận để tiếp tục dong thuyền ra Biển Đông hay Ấn Độ Dương. Ở đây, người ta cũng dễ dàng thuê tàu đi Đông, đi Tây theo hải trình đã định (còn tiếp).
Lương Chánh Tòng