Trong nền nghệ thuật văn hóa Đông Sơn nổi tiếng ở nước ta, cách ngày nay trên dưới 2000 năm, đã xuất trình hàng loạt bộ sưu tập, phản ánh muôn mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng và tâm linh của cư dân Việt cổ, để rồi, tạo nên một ngôi sao sáng chói trên bầu trời khu vực lúc bấy giờ. Trong những bộ sưu tập phong phú ấy, hình ảnh voi là vô cùng ấn tượng với những biểu hiện tư duy đa ngữ nghĩa, và phong cách thể hiện vô cùng phong phú, mà giờ đây, sự tích lũy tư liệu ngày một điền đầy có thể dễ nhận ra, trong khi, vài thập niên trước còn khá mờ nhạt, do tài liệu còn ít ỏi. Rồi, đâu đó, trong các văn liệu sử và khảo cổ học, có đôi ba gợi ý về mối liên hệ giữa hình ảnh con voi với danh xưng Tượng Quận, khiến khó có thể bỏ qua, dẫu rằng, giải mã mối quan hệ ấy là vô cùng phức tạp, khi tính đa chức năng, đa ngữ nghĩa của vật dụng từ những sáng tạo của con người nói chung và người Việt cổ nói riêng, dường như không có biên độ rõ ràng. Bài viết này, xin mạnh dạn gợi mở vài ý ban đầu qua những kiến giải chủ quan và trực quan, mong lần ra được sợi dây liên hệ mong manh giữa chúng, khi di vật khảo cổ học và tư liệu lịch sử dường như có sự trùng khớp ít nhiều.
Voi trong nghệ thuật tạo hình văn hóa Đông Sơn.
Có thể nói, nghệ thuật tạo hình Đông Sơn là nghệ thuật miêu tả con người và động vật vô cùng sinh động và xuất sắc với hai phong cách: tả thực và cách điệu, qua hai kỹ thuật biểu hiện: tượng tròn và phù điêu. Thế nhưng, đề tài voi tả thực dường như được quán xuyến trong tất cả những tác phẩm đã khảo sát.
Như nhiều người đã tổng kết, tượng tròn trong nghệ thuật Đông Sơn không phải là thế mạnh như các nền nghệ thuật Phương Tây suốt từ cổ chí kim. Đề tài và hình ảnh con voi cũng không năm ngoài đặc điểm chung ấy, theo đó, chúng thường là phù điêu hoặc được gắn trên một vật dụng với tên gọi phản ánh công năng, dẫu không rõ ràng và chưa được thống nhất trong giới khảo cổ học, bởi sự đa chức năng của chúng.
Chiếc chuông voi trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là một ví dụ. Chuông gồm hai bộ phận, thân chuông là hình nửa quả bàng, có lục lạc bên trong, có hai lỗ thủng hình chữ nhật ở trên thân, hai tai vểnh cong như hai chiếc ngà. Ở trên đỉnh, giữa hai chiếc “ngà” ấy là tượng voi đứng. Đa số giới nghiên cứu khảo cổ học gọi là “chuông voi”, hẳn có hàm ý, đó là vật dụng cho những đàn voi chăn thả trong quá trình thuần dưỡng, hoặc đã là vật nuôi của cộng đồng. Tôi lại cho đó là những chiếc chuông trong dàn chuông, liên quan tới những buổi tế lễ về ban đêm, có mối quan hệ tới những cây đèn trong tín ngưỡng Đạo giáo (1). Đưa ra ví dụ trên để thấy tính đa chức năng của hiện vật, nhằm giải mã những giá trị, ít nhiều mang tính biểu tượng, có liên quan tới phần sau của bài viết này.
Chuông đồng - Văn hóa Đông Sơn, khoảng 2.500 - 2.000 năm cách ngày nay
Cũng tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, còn có một cây đèn đồng phát hiện được ở di chỉ Làng Vạc (Nghệ An) (2), thuộc văn hóa Đông Sơn. Cả một cây đèn nhiều nhánh, nhiều tầng, nhiều đĩa đèn được đặt trên một bệ đỡ hình voi đứng. Tỷ lệ giữa bệ và cây đèn khá chông chênh và yếu ớt, nhưng với dáng vẻ tả thực của con voi/bệ đỡ, uy nghi và hùng dũng, đã tạo nên một cây đèn – cây vũ trụ, có liên quan tới những cuộc hành lễ, của tín ngưỡng Đạo giáo, như tôi đã nói ở trên, mà O.Janse đã chỉ ra cách đây hơn nửa thế kỷ, qua cây đèn hình người nổi tiếng ở Lạch Trường, Thanh Hóa (3). Như vậy, lại một lần nữa, tượng voi được gắn với tên gọi khác: Cây đèn, với ngữ nghĩa nhiều hơn.
Ở Làng Vạc, không chỉ cây đèn này có hình voi, còn có dao găm voi ở đốc, muôi hình voi ở cán và tượng voi, chắc được gắn trên một vật gì đó, nay còn lại dấu vết trên 4 chân (4), khiến cho tôi không tin đó là tượng tròn – một hiện tượng hiếm thấy trong nghệ thuật Đông Sơn, như đã thấy.
Ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia cũng còn một con dao găm khác, sưu tầm cách đây hơn 10 năm tại đô thị cổ Hội An (Quảng Nam). Theo hồ sơ, đây là con dao găm phát hiện được ở Đại Lãnh cùng tỉnh, trong văn hóa Sa Huỳnh, có niên đại tương đương với Đông Sơn. Trên đốc dao cũng có một tượng voi giống như dao găm Làng Vạc, dẫu có sự khác biệt đôi chút ở phần lưỡi, khiến có thể đưa ra một giả thuyết về sự trao đổi, buôn bán đương thời giữa hai trung tâm lớn Đông Sơn và Sa Huỳnh – điều mà chúng ta đã nhận diện qua rất nhiều tư liệu trên đồ gốm, đồ đồng, đồ trang sức… do hai nền văn hóa ấy phát lộ đã cung cấp.
Nghệ thuật miêu tả voi trên đồ dùng thời Đông Sơn, còn thấy trên các ấm đồng, với sự phối kết khá đặc biệt. Đó là những chiếc ấm có nắp đậy, quai vòng qua miệng, cổ eo, bụng phình, đế loe. Nắp và chân ấm đúc nổi cánh sen, giữa thân có gân nổi. Vòi ấm là đầu voi, được giới sưu tập cổ ngoạn gọi tên là “ấm đầu voi”. Loại ấm này khá phổ biến vào giai đoạn Đông Sơn mạt kỳ và cùng với chúng là những ấm chất liệu gốm có hình dáng tương tự, nhưng kích thước lớn hơn. Nhiều nhà nghiên cứu coi loại hình này là sự giao thoa văn hóa Việt – Hán. Tôi hoàn toàn không tán đồng với thuật ngữ này và coi đây là sản phẩm một trăm phần bản địa. Gần đây, môt số nhà nghiên cứu Việt Nam, Mỹ và cả Trung Quốc nữa, cũng có chung nhận định này (5).
Trong nghệ thuật tạo hình thời Đông Sơn, hoa văn trống đồng là đỉnh cao của phong cách tả thực. Trên đó, người nghệ sĩ xưa đã gửi gắm vào bên trong nhiều cảm xúc và tư duy, khiến cho đến nay, có rất nhiều mô-típ hoa văn cùng với sự vận hành biến ảo của chúng, chưa thể giải mã một cách thấu đáo.
Tại một sưu tập tư nhân Hà Nội, có một chiếc trống đồng Đông Sơn vô cùng đặc biệt, với những tổ hợp hoa văn khác lạ so với nhiều trống đồng đã biết trước đây. Ngoài những hình ảnh thuyền – người, chim – thú hao hao với bố cục trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa, thì chiếc trống này lại thuộc về loại hình trống lùn, hoa văn thuyền – người được tối giản nơi tang trống với hình thuyền mỏng manh như chiếc lá, còn người được cách điệu như một ẩn dụ, được TS Tạ Đức và tôi gọi là người khỉ (6). Tuy nhiên, sự đặc biệt lại nằm ở hai tổ hợp khác trên thân trống, đó là cảnh hiến sinh bò mà ngày nay còn thấy “hóa thạch” ở một số dân tộc Tây Nguyên và hình ảnh hai người phụ nữ cưỡi voi, cùng với những chiến binh đánh bộ, cầm vũ khí hò reo xung trận. Hình ảnh trên đây là duy nhất có trên trống đồng Đông Sơn này và dường như có liên quan tới truyền thuyết lịch sử về Hai Bà Trưng, với niên đại tương đối trùng khớp với cuộc khởi nghĩa ấy ở thế kỷ 1 sau Công nguyên.
Trống đồng loại II Heger, được giới nghiên cứu đồng thuận, coi chúng như một loại trống nối tiếp trống Đông Sơn, với một khung niên đại kéo dài gần 20 thế kỷ. Thế nhưng, chỉ ở giai đoạn đầu, khoảng thế kỷ 2-3 sau Công nguyên, có ít ỏi trống loại này đúc tượng voi, được hàn trên vành ngoài cùng, bên cạnh tượng cóc phổ biến, đều có chiều chuyển động ngược chiều kim đồng hồ. Voi và cóc được tả thực sinh động, không có sự cách điệu như hình ảnh con người và những động vật khác.
Voi trong nền nghệ thuật tạo hình Đông Sơn và hậu Đông Sơn, không chỉ có thế và người viết cũng không muốn sà đà hơn để miêu thuật thêm những tư liệu tương đồng. Mặc dù vậy, so với đề tài con người và động vật, theo khảo sát của tác giả, hình tượng con voi không phải là nổi trội và đậm đặc, nhưng đó là nguồn cảm hứng của nghệ sĩ đối với loại động vật gần gũi và thân quen trong đời sống của người Việt cổ. Và, như đã phân tích đôi dòng ở trên, cùng sự thực chứng qua di vật, con voi thường đi liền với những câu chuyện, những tên gọi liên quan tới chức năng của hiện vật, khiến cho nó không phải, hay chưa hoàn toàn mang giá trị biểu tượng cho một danh xưng. Tuy nhiên, xét trên phương diện nghệ thuật biểu hiện, thì voi là con vật được diễn tả cụ thể, sinh động, chân thật nhất so với nghệ thuật miêu tả con người và động vật thời Đông Sơn. Và, dường như, nó cũng chưa hề thấy trong nghệ thuật tạo hình của nhiều nền văn hóa tương đồng, kề cận với Đông Sơn, khiến cho, đâu đó có ý kiến đặt mối quan hệ Tượng Quận với hình ảnh con voi trong nghệ thuật Đông Sơn, xem ra có phần logic, khi chúng ta khảo sát thêm không gian địa lý của Tượng Quận trong lịch sử.
Voi và vấn đề Tượng quận.
Ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ trước, khi bàn về danh xưng Tượng Quận và cương vực của quận này, L.Auroseau đã gọi đó là quận của những con voi (7).
Sau này, các học giả Đài Loan như Ngô Tấn Tài, Quách Đình Dĩ, Chu Văn Ánh, đây đó trong các khảo cứu của mình đều có ghi nhận Tượng Quận là do sản sinh voi mà có tên: “Tượng Quận là do sản sinh ra voi mà có tên. Trung Quốc từ thời có sử, không kể là lưu vực sông Hoàng Hà hoặc Hoài Hà, đều không có chứng cứ xác thực về sản sinh ra voi”.
Học giả Trần Kính Hòa, căn cứ vào hai đoạn ghi chép về voi trong Toàn thư, cùng một số ghi nhận về voi ở Giao Chỉ trong nhiều thư tịch của Trung Hoa, đã đi tới nhận định rằng: “…đất này đặt tên là Tượng Quận (Quận voi) càng chứng thực rằng, tên gọi đó bắt nguồn từ đặc sản của loài voi”.
Giáo sư Kiều Thu Hoạch, trong một công trình nghiên cứu công phu, dường như cũng tán đồng với danh xưng này: “Tượng Quận là cái tên bắt nguồn từ xứ sở của voi là điều không còn nghi ngờ gì nữa”. Và, trong minh họa phần phụ lục, dẫu chẳng có lời bình luận, nhưng ông đã đưa những hiện vật Đông Sơn có trang trí hình tượng voi như một gợi ý chỉ dẫn về Tượng Quận, theo cách hiểu của người viết bài này.
Xuất phát điểm của những ý kiến trên, chính là đặc sản voi ở miền Bắc Việt Nam thời bấy giờ, khoảng thế kỷ 2 Trước công nguyên, khi Tần Thủy Hoàng chiếm Lạc Việt, đồng thời, cũng là thời điểm tên Tượng Quận ra đời. Câu chuyện còn liên quan tới người phụ nữ có tên Triệu Ẩu, ở quận Cửu Chân, nổi lên chống giặc Ngô, qua hình ảnh với con voi quen thuộc, được Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát nhắc tới “Vú dài ba thước vắt lưng/ cưỡi voi gióng trống trong rừng trẩy ra”. Và, trong Thủy kinh chú, cũng cho thấy “Tháng 10 năm Kiến Vũ 19 (43) đời Hán Quang Vũ, Mã Viện tiến quân vào quận Cửu Chân đánh dẹp tàn quân của Hai Bà Trưng, Lúc Viện tới vùng Dư Phát (huyện Nga Sơn, Thanh Hóa hiện nay), thủ lĩnh của nghĩa quân là Chu Bá bỏ chạy vào khu rừng sâu, đầm lớn, ở đó có tê giác, voi quần tụ, dê, bò cả đàn đứng đông đến ngàn con, bấy giờ lại thấy voi tụ vào riêng thành đàn vài ngàn con”. Câu chuyện này cũng có phần liên quan tới hình ảnh trên trống đồng mà tôi đã lược thuật, khi voi được thuần dưỡng, tham gia vào trận chiến chống quân Đông Hán của Hai Bà Trưng năm 43.
Như vậy, qua đơn cử sử liệu và những nhận xét của các học giả đương đại, thì mối liên hệ giữa con voi và Tượng Quận diễn ra chủ yếu ở vùng đất mà ngày nay, thuộc miền Bắc Việt Nam. Thế nhưng, Tượng Quận có phải là vùng đất ấy hay không, lại là một vấn đề vô cùng dài dòng và phức tạp, theo đó, tôi muốn mượn đôi ba ý của giáo sư Kiều Thu Hoạch để tóm lược các ý kiến của các học giả bàn về cương vực Tượng Quận như sau (8):
H. Maspero, một học giả Pháp, trong tác phẩm Những luận văn khảo cứu về nước An Nam, công bố trên tạp chí BEFEO, quyển XVI, năm 1906 đã viết “Tóm lại, Tượng Quận phải nằm trong phạm vi của nước Trung Quốc hiện tại. Do đó, mà nó đã chiếm hữu một phần đất của tỉnh Quảng Tây và Quý Châu”.
L. Auruseou, cũng là một học giả Pháp cùng thời, không tán đồng với quan điểm này và cho rằng, Tượng Quận hoàn toàn nằm trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay, qua công trình nghiên cứu Cuộc chinh phục đầu tiên của người Trung Hoa vào đất An Nam, đăng trên BEFEO, tập XVIII, năm 1923, với hẳn một chương bàn các thuyết giới hạn của Tượng Quận.
Học giả Đào Duy Anh trong tác phẩm Lịch sử cổ đại Việt Nam, phần viết về vị trí Tượng Quận, có những lời bình luận về thuyết Tượng Quận của Phạm Khải – sử thần cuối thời Tự Đức, của học giả Nhật Bản Guimeisacki, của học giả Trung Quốc Trần Tu Hòa và trọng điểm là hai thuyết của H. Masspero và L.Aurouseau, rồi đi đến kết luận “Tượng Quận tức là miền Tây bộ tỉnh Quảng Tây ngày nay”.
Phó giáo sư Nguyễn Duy Hinh, trong công trình nghiên cứu Văn minh Đại Việt, cho rằng, Tượng Quận là ở Bắc bộ Việt Nam ngày nay: “Tượng Quận là vùng đất nào? Các sử gia cổ nước ta cho rằng, Tượng Quận chính là đất nước ta bao gồm toàn bộ lưu vực sông Hồng và sông Mã. Họ cho rằng, cuộc xâm lược của Triệu Đà chiếm Tượng Quận chính là cuộc chiếm của Triệu Vũ Vương đánh chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương. Dù rằng, vẫn có tư liệu về Tượng Quận nằm ngoài địa bàn nước ta.”
Các học giả thời Trung Hoa dân quốc đến Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có Lê Chính Phủ, trong công trình Quận huyện thời đại chí An Nam tỏ ý đồng thuận với L.Aurouseau, bác bỏ quan điểm của H. Masspero. Còn Lã Sĩ Bằng trong Bắc thuộc thời ký đích Việt Nam cũng tán thành với khảo cứu của L.Aurouseau và phản bác H. Masspero. Tuy nhiên, Lã Sĩ Bằng cũng cho rằng L.Aurouseau vẫn còn lỗ hổng, khi kéo biên giới phía Nam của Tượng Quận đến tận mũi Veralla (Đại Lãnh, Quảng Nam ngày nay) là quá xa, vì theo Sam Bản Trực Trị Lang – một nhà nghiên cứu Nhật Bản, bàn về biên cảnh phía Nam Trung Quốc thời Tần – Hán, cũng nghĩ rằng, Tượng Quận đời Tần chính là vùng Bắc Kỳ, bởi chính lệnh của nhà Tần không thể tới Varella được.
Các học giả nghiên cứu Việt Nam học người Đài Loan như Ngô Tuấn Tài, Quách Đình Dĩ, Chu Văn Ánh đều có chung một kết luận, dẫu có những cách diễn đạt khác nhau trong các công trình khảo cứu của mình, rằng Tượng Quận nằm trên đất Việt Nam và Tượng Quận gắn liền với sự kiện Tần Thủy Hoàng bình Bách Việt.
Giáo sư Kiều Thu Hoạch, sau khi đã khảo cứu tất cả những luận điểm nêu trên và đã đi đến kết luận rằng, Tượng Quận là một danh xưng hoàn toàn nằm trên đất Việt Nam, như một địa danh lịch sử thời Tần, chứ không phải là địa danh nằm trên đất Trung Quốc như điều ngộ nhận của H. Masspero. Ông cũng nhấn mạnh từ góc nhìn sinh thái nhân văn, bên cạnh những góc nhìn khác như địa chính trị, địa lịch sử, dân tộc học, khảo cổ học và ngôn ngữ học lịch sử để đưa ra kết luận này là hoàn toàn đủ cơ sở.
Tôi hoàn toàn tán đồng với ý kiến của các học giả cho rằng, Tượng Quận chính là vùng đất thuộc miền Bắc Việt Nam ngày nay. Đó chính là không gian của văn hóa Đông Sơn thời Trung kỳ và phần nào đó tới Hậu kỳ, tương đương với giai đoạn Tần – Hán. Đó cũng chính là văn minh vật chất của những dòng sông Hồng, sông Mã và sông Cả và kết thúc ở biên giới hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình ngày nay của Việt Nam.
Như vậy, voi và danh xưng Tượng Quận có một mối dây liên hệ, như đã nêu dẫn trên đây là hoàn toàn có thể khẳng định. Thế nhưng, voi trong nghệ thuật Đông Sơn có hẳn là biểu tượng cho danh xưng này thì vẫn còn rất mờ nhạt, khi mà hình tượng voi sớm nhất tìm thấy trong di chỉ Làng Vạc Nghệ An, được trích thuật ở đầu bài viết này, dường như còn đơn điệu, cô độc và ít giá trị biểu tượng, cho dù, có vẻ như, niên đại Làng Vạc khá trùng khớp với sự kiện Tần Thủy Hoàng xâm chiếm đất Phương Nam (9) để lập nên Tượng Quận, chính là miền Bắc Việt Nam ngày nay là hoàn toàn có cơ sở. Niên điểm đầu là vậy, nhưng Đông Sơn ở những thế kỷ trước, sau Công nguyên, qua tài liệu khảo cổ học, cũng không thể phủ nhận mối liên hệ của chúng với danh xưng Tượng Quận.
Tôi vẫn cho rằng, vùng sinh thái nhiều voi ở Miền Bắc Việt Nam xưa kia, ít nhất cũng đã tạo nguồn cảm hứng cho địa danh lịch sử, với tên gọi Tượng Quận và nó cũng tạo nên một nguồn cảm hứng nghệ thuật tả thực voi trong văn hóa Đông Sơn, để bảy, tám thể kỷ đêm trường thuộc Bắc vắng bóng, rồi trở lại trong văn hóa Đại Việt thời độc lập tự chủ như một hằng số của nghệ thuật dân tộc. Ý tưởng này xin nợ lại độc giả cho một bài viết sau, sâu sắc và kỹ lưỡng hơn với những tư liệu phong phú đã được chuẩn bị.
TS. Phạm Quốc Quân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1).Phạm Quốc Quân: Về những chiếc “Thố đồng” Đông Sơn – Tạp chí Khảo cổ học, số 2 – 2009.
(2).Phạm Quốc Quân: Về những cây đèn đồng Hậu Đông Sơn – Ngã Ba di sản. NXB Dân Trí, Hà Nội, 2011.
(3).O.Janse: Bí mật cây đèn hình người. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam xuất bản, Hà Nội năm 2003.
(4).Trịnh Minh Hiên và các cộng sự: Báo cáo khai quật di chỉ Làng Vạc (Nghệ An) lần thứ nhất. Tư liệu Bảo tàng Nghệ An.
(5)Marlynn Larew: Trở lại với Janse: Đồ tùy táng ở Thanh Hóa – Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam – Hà Nội, 2005.
Nguyễn Việt cũng có ý kiến tương tự trong cuộc tọa đàm khoa học tháng 6 năm 2017 về niên đại của văn hóa Đông Sơn để phục vụ cho tập II, bộ Lịch sử Việt Nam đang biên soạn.
Các nhà khảo cổ học tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) khi làm việc với Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng cho rằng, những đồ đồng, đồ gốm tìm thấy trong những thể kỷ đầu Công nguyên ở Bắc Việt Nam không mang yếu tố Hán Trung Nguyên kể cả phong cách lẫn kiểu dáng.
(6)- Tạ Đức: Nguồn gốc và sự phát triển của trống đồng Đông Sơn (sách chuyên khảo). NXB Trí Thức, Hà Nội, 2017.
Phạm Quốc Quân: Về những cây đèn đồng Hậu Đông Sơn, đã dẫn.
(7) Phần viết này, tôi tóm tắt ý kiến của giáo sư Kiều Thu Hoạch trong cuốn sách: Góp phần nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam, NXB Thế Giới, Hà Nội, 2016
(8) Kiều Thu Hoạch: Góp phần nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam – NXB Thế giới, Hà Nội, 2016.
(9)Phạm Minh Huyền – Trịnh Sinh: Khai quật Làng Vạc (Nghệ An) lần thứ 2 – Tư liệu Bảo tàng Nghệ An. Trong báo cáo, hai tác giả cho niên đại Làng Vạc là thế kỷ 2 Trước Công nguyên, theo tôi là hợp lý.