Vua huý là Thì (Thời), tên đặt theo Đế hệ thi là Hồng Nhậm, sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1829) là con trai thứ 2 vua Thiệu Trị. Mẹ là Phạm Thị Hằng, con gái Thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng người huyện Tân Hoà, Gia Định. Tháng giêng năm Thiệu Trị 3 (1843) Ngài 14 tuổi được triều đình phong làm Phúc Tuy Công, Ngài còn được ban ấn vàng Phúc Tuy công ấn và ấn bạc Phúc Tuy Quan phòng. Tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), Hồng Nhậm lên nối ngôi ở điện Thái Hoà, lấy niên hiệu là Tự Đức, lúc 19 tuổi.
Vua là người rất có hiếu với cha mẹ. Khi mới lên ngôi, Tự Đức làm tang vua cha cực kỳ cẩn thận, trang trọng. Vua cũng rất có hiếu với mẹ là bà Từ Dũ. Vua tự quy định, ngày lẻ trong tháng thì thiết triều, ngày chẵn vào chầu thăm mẹ. Nhiều phiến tấu còn lại có chữ son “châu phê” thì thấy “vua phê còn dài hơn lời tâu”, chứng tỏ nhà vua rất chăm chỉ và cẩn thận việc chính sự. Nhà vua ở ngôi 36 năm (1847-1883), mất ngày 16/6 năm Quý Mùi (19/7/1883), hưởng thọ 55 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Dực Tông Anh Hoàng Đế.
Vua Tự Đức không có con, nên nhận 3 người cháu gọi bằng chú làm con nuôi là:
Nguyễn Phúc Ưng Chân, sau này là vua Dục Đức.
Nguyễn Phúc Ưng Đường, sau này là vua Đồng Khánh.
Nguyễn Phúc Ưng Đăng, sau này là vua Kiến Phúc.
Trong sưu tập bảo vật triều Nguyễn do Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia lưu giữ hiện còn 4 Kim Bảo ấn sau đây đúc dưới đời vua Tự Đức:
1. Kim ấn: Tự Đức thần hàn. Ấn đúc bằng vàng, 2 cấp hình vuông, quai là tượng rồng chầu, 2 chân trước chống, 2 chân sau quỳ, đầu ngẩng, mũi cao, bờm dài, đuôi xoáy. Lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán:
- Bên trái: Thập tuế hoàng kim, thất thập lục lạng lục tiền ngũ phân (Vàng 10 tuổi, nặng 76 lạng 6 tiền 5 phân).
- Bên phải: Tự Đức nguyên niên nhị nguyệt cát nhật tạo. (Đúc vào ngày lành tháng 2 năm năm Tự Đức 1, 1848).
Mặt ấn đúc nổi 4 chữ Triện trong khung diềm: Tự Đức Thần hàn. (Văn từ ở cung vua Tự Đức).
Tiến sĩ Nguyễn Công Việt đã giới thiệu trong cuốn sách Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX hình dấu Tự Đức Thần hàn đóng trên một bản “châm” có chữ son của vua Tự Đức viết vào ngày 7 tháng 7 năm Tự Đức (1855).
2. Kim Bảo: Dực Tông Anh Hoàng đế chi bảo (N.27). Kim ấn này được đúc bằng vàng, 2 cấp hình vuông, quai hình rồng đang bay, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi uốn, 4 chân rồng 5 móng, tư thế co lại. Lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán:
- Bên trái: Sứng trọng nhất bách tam lạng lục tiền. (Cân nặng 103 lạng 6 tiền).
- Bên phải: Tự Đức tam thập lục niên thập nhất nguyệt cát nhật phụng chú tạo. (Phụng mệnh đúc vào ngày lành tháng 11 năm Tự Đức 36, 1883).
Mặt ấn đúc nổi 7 chữ Triện: Dực Tông Anh Hoàng đế chi bảo (Bảo của Dực Tông Anh Hoàng đế).
Như vậy, Kim Bảo ấn này được đúc ngay sau khi vua Tự Đức băng hà mang Miếu hiệu và Thuỵ hiệu để thờ trong Thế Miếu.
3. Kim ấn: Mông dĩ dưỡng chính Thánh công dã..
Ấn đúc bằng vàng, 1 cấp hình vuông, quai hình rồng đứng, đầu quay sang phải, đuôi uốn, chân rồng 4 móng. Lưng ấn bên trái khắc 1 dòng chữ Hán: Thập tuế kim, trọng thất lạng thất tiền bát phân. (Vàng 10 tuổi, nặng 7 lạng 7 tiền 8 phân).
Bốn cạnh bên đều khắc chữ Hán:
- Sắc tứ hoàng nhị tử công. (Ban cho Hoàng tử thứ 2 tước công).
- Đồng Khánh tiềm để chí bảo. (Bảo của Đồng Khánh ở Tiềm để).
- Tự Đức Tân Tỵ gia bình. ,
- Lợi đa xuất các vị hiệu.
Mặt ấn đúc nổi 7 chữ kiểu chữ chân và dấu quẻ Tốn trong khung diềm ô vuông.
Theo sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, “Nguyễn Phúc Biện tức là Nguyễn Phúc Ưng Đường là con trưởng của Kiến Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, mẹ là Thái vương phi Bùi Thị Thanh… Năm Ất Sửu (1865) lúc lên 2 tuổi Ngài được vua Dực Tông đưa vào cung giao cho bà Thiện phi Nguyễn Thị Cẩn nhận làm Dưỡng tử. Năm Kỷ Mão (1879) vua chuẩn cho Ngài ra ở Chính Mông đường để học hành, nên Ngài thường được gọi là Ngài Chính Mông”.
Như vậy, có thể xác định kim ấn này Nguyễn Phúc Biện được vua Dực Tông ban cho khi được lập Hoàng Thái tử vào năm 1879.
4. Kim ấn: Chính Mông. Ấn đúc bằng bạc, 1 cấp hình vuông, quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi uốn, 4 chân chùng. Lưng ấn để trơn nhưng trên cạnh phía trước đầu rồng khắc 1 dòng chữ Hán: Đồng Khánh Tiềm để. (Đồng Khánh lúc ở Tiềm để). Mặt ấn đúc nổi 2 chữ Triện trong khung hồi văn: Chính Mông. Đây là kim ấn do vua Dực Tông ban cho Nguyễn Phúc Biện vào năm 1879.
TS. Nguyễn Đình Chiến