Vua Thiệu Trị có tên là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mệnh và bà Hồ Thị Hoa (Tá Thiên Nhân Hoàng hậu), sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16/6/1807) tại ấp Xuân Lộc, phía Đông kinh thành Huế. Năm Quý Mùi (1823) theo phép đặt tên của Đế hệ Thi, Hoàng tử Dung có tên mới là Miên Tông. Ông là con trưởng trong số 78 hoàng tử của vua Minh Mệnh nên được nối ngôi.
Hoàng trưởng tử Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hoà ngày
20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11/2/1841), làm vua được 7 năm (1841-1847) đặt niên
hiệu là Thiệu Trị, hưởng thọ 41 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào
thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Hiến Tổ Chương Hoàng Đế.
Theo sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, “Đầu đời Minh Mệnh Nguyễn Miên Tông được xuất các và đến ở Chí Thiện đường để học. Đến năm Canh Dần (1830) Ông được phong là Trường Khánh công. Cũng năm đó, Nguyễn Miên Tông được vua Minh Mệnh cho đúc và ban chiếc ấn bằng bạc mạ vàng, một cấp, quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi uốn, chân 4 móng. Lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán cho biết ấn nặng 44 lạng 9 tiền 4 phân và thời gian đúc. Mặt ấn đúc nổi 4 chữ Triện: Trường Khánh công ấn.
Năm Đinh Dậu (1837), ông được kiêm nhiếp Tôn nhân phủ Tả tôn chính, trông coi các việc thuộc về dòng họ, từ việc lập các phổ, ban chức tước cho đến việc định phép tắc, chọn nhân tài, giúp đỡ người trong họ.
Kim Bảo đúc dưới đời vua Thiệu Trị hiện còn lưu giữ trong sưu tập Bảo vật của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam có 6 chiếc như sau:
1. Kim Bảo: Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế chi bảo.
Ấn đúc bằng vàng, 2 cấp hình vuông, quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi xoáy 6 dải nhọn, chân 5 móng. Lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán:
- Bên trái: Bát ngũ tuế hoàng kim, trọng nhất bách thập nhất lạng ngũ tiền tứ phân. (Vàng 8 tuổi rưỡi, nặng 111 lạng 5 tiền 4 phân).
- Bên phải: Thiệu Trị nguyên niên tam nguyệt cát nhật phụng chú tạo. (Phụng mệnh đúc vào ngày lành tháng 3 năm Thiệu Trị thứ 1, 1841).
Mặt ấn đúc nổi 7 chữ Triện: Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế chi bảo.
Như vậy, sau khi lên ngôi vua 2 tháng vua Thiệu Trị đã ra lệnh đúc Kim Bảo mang Miếu hiệu và Thụy hiệu của vua cha: Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế để thờ trong Thế Miếu.
2. Kim Bảo: Phúc Tuy công ấn. Ấn được đúc bằng vàng, 1 cấp hình vuông, quai hình rồng đứng phủ phục, đầu ngẩng, mũi cao, sừng cong, lưng cong, đuôi uốn, chân rồng 4 móng. Lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán:
- Bên trái: Trọng tứ thập ngũ lạng ngũ tiền. (Nặng 45 lạng 5 tiền).
- Bên phải: Thiệu Trị tam niên tạo. (Đúc vào năm Thiệu Trị thứ 3, 1843).
Dòng chữ khắc năm đúc ấn rất trùng khớp với ghi chép trong Nguyễn Phúcc tộc thế phả đã khẳng định đây là Kim Bảo vua Thiệu Trị cho đúc ban cho Hoàng tử Hồng Nhậm khi được phong là Phúc Tuy Công năm 1843.
3. Kim Bảo: Phúc Tuy quan phòng. Ấn đúc bằng bạc, 1 cấp hình vuông, quai hình kỳ lân đứng, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi uốn, 4 chân chùng. Trên thân chạm nhiều bông hoa tròn. Mặt ấn đúc nổi 4 chữ Triện trong khung viền: Phúc Tuy quan phòng - Quan phòng của Phúc Tuy công. (Quan phòng là tên một loại ấn xuất hiện vào đầu triều Nguyễn ở nước ta)
Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả, Nguyễn Phúc Hồng Nhậm là con thứ 2 vua Thiệu Trị. “Năm Tân Sửu (1841) khi Hiến Tổ đã lên nối ngôi, Ngài (12 tuổi) được ra ở Thiện Khánh đường để lo việc học hành, rồi năm Nhâm Dần (1842) được theo Hiến Tổ ra Bắc làm lễ tuyên phong. Đến năm Quý Mão (1843) Ngài được phong là Phúc Tuy công.”
Đây là ấn bạc vua Thiệu Trị cho đúc để ban cho Hoàng tử Hồng Nhậm khi đựơc phong làm Phúc Tuy công năm 1843.
4. Kim Bảo: Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bảo. Ấn đúc bằng vàng 2 cấp hình vuông, quai rồng chầu tương tự như thể thức các Kim Bảo Khâm văn chi tỷ, Duệ vũ chi tỷ và Trị lịch minh thời chi bảo đúc dưới đời vua Minh Mệnh. Lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán:
- Bên trái: Thập tuế hoàng kim, trọng nhất bách nhị thập ngũ lạng ngũ tiền tứ phân. (Vàng 10 tuổi, nặng 125 lạng 5 tiền 4 phân).
- Bên phải: Thiệu Trị thất niên thập nguyệt cát nhật tạo. (Đúc vào ngày lành tháng 10 năm Thiệu trị thứ 7, 1847).
Mặt ấn đúc nổi 7 chữ triện: Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bảo. So sánh với Kim Bảo Trị lịch minh thời chi bảo đúc dưới đời vua Minh Mệnh thì cả kích thước và trọng lượng, chủng loại vàng đều khá tương đồng.
Ấn này dùng để đóng trên các bản lịch, bản chính sóc của vương triều .
5. Kim bảo Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái hậu chi bảo. : Ấn đúc bằng vàng 8 tuổi rưỡi, 2 cấp hình vuông, quai hình rồng đứng, đầu ngẩng, lưng cong, đuôi uốn 7 dải hình ngọn lửa, chân 5 móng. Lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán:
- Bên trái: 八 五 歲 皇 金 重 九 十 五 両 七 錢 四 分 Bát ngũ tuế hoàng kim, trọng cửu thập ngũ lượng thất tiền tứ phân (Vàng 8 tuổi rưỡi, nặng 95 lạng 7 tiền 4 phân).
- Bên phải: 紹 治 元 年 三 月 吉 日 奉 鑄 造 Thiệu Trị nguyên niên tam nguyệt cát nhật phụng chú tạo (Phụng mệnh đúc vào ngày lành tháng 3 năm Thiệu Trị 1, 1841).
Mặt ấn đúc nổi 10 chữ Triện trong khung viền: 仁 宣 慈 慶 太 皇 太 后 之 寶 Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái hậu chi bảo .
Đây là kim ấn do vua Thiệu Trị, tấn tôn cho bà nội Trần Thị Đang như đã nêu trên.
6. Kim bảo Nhân Hoàng hậu chi bảo : Ấn đúc bằng vàng 8 tuổi rưỡi, 2 cấp hình vuông, quai rồng đứng chầu, đầu ngẩng cao, 2 chân trước chổng, 2 chân sau chùng, đuôi xoắn 6 dải nhọn hình ngọn lửa, chân 5 móng. Lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán:
- Bên trái: 八 五 歲 金 重 八 十 二 両 二 錢 三 分 Bát ngũ tuế kim, trọng bát thập nhị lượng nhị tiền tam phân (Vàng 8 tuổi rưỡi, nặng 82 lạng 2 tiền 3 phân).
- Bên phải: 紹 治 元 年 四 月吉日奉 鑄 造 Thiệu Trị nguyên niên tứ nguyệt cát nhật phụng chú tạo (Đúc vào ngày lành tháng 4 năm Thiệu Trị 1, 1841).
Mặt ấn đúc nổi 5 chữ Triện trong khung ô viền, chữ Hậu ở giữa có chiều cao bằng 2 chữ khác 2 bên: 仁 皇 后 之 寶 Nhân Hoàng hậu chi bảo (Bảo của Nhân Hoàng hậu). Đây là Kim Bảo ấn thứ 2 của bà Hồ Thị Hoa .
TS. Nguyễn Đình Chiến