5. Gốm men trắng màu thanh niên và bạch định.
Gốm men trắng xanh (thanh niên) và trắng (hoặc định) trong các mộ Mường kém phong phú hơn so với celadon, chúng không phổ biến ở một thế kỉ nào và kéo dài suốt một thời gian tồn tại của mộ Mường cổ.
- Thế kỉ 12 - 14: chủ yếu là loại gốm Tống - Nguyên (Trung Quốc). Màu men xanh da trời là một cách nhìn khái quát, nhưng thật chi tiết, sẽ thấy màu xanh của thời Tống ngả xẫm hơn, xương mỏng, ít kao lanh, đất được lọc kĩ lưỡng. Hoa văn chủ yếu là chìm dưới men. Men mỏng nên họa tiết được nổi bật dưới men. Vành miệng của bát hoặc đĩa thường không men (bạc khẩu), chứng tỏ kĩ thuật nung là hai hiện vật úp vào nhau rồi đặt trong bao nung. Đồ gốm thời Nguyên có màu xanh nhạt hơn, xương dầy và nhiều kao lanh hơn. Kĩ thuật tạo văn cũng chìm (ám họa) như thời Tống, nhưng không uyển chuyển, mềm mại như Tống. Các họa tiết hoa lá được bố cục khuôn trong những cánh sen vuông, nên khô cứng.
Loại hình chủ yếu của gốm loại này ở Mường là bát, đĩa, âu và rất ít ghè, lọ.
- Gốm Việt Nam trong thời kì này đặc trưng nhất là loại gốm trắng thời Lí. Đó là loại men dầy, có màu trắng nước gạo nếp, có vết rạn thời gian dưới men. Xương gốm trắng, dầy. Hoa văn chủ yếu là hoa dây, các loại cánh sen đắp nổi ở vai hiện vật. Loại hình chủ yếu là bát, đĩa và đặc trưng nhất là liễn hình trụ, có nắp.
- Thế kỉ 15 - 18: sứ bạch định (màu trắng) Trung Quốc nhiều hơn ở Mường với trung tâm sản xuất là lò Đức Hóa. Loại sứ này có màu men trắng, xương mỏng, nhiều kao lanh. Hầu hết loại sứ này không có hoa văn, nhưng đôi tiêu bản có hoa văn chìm dưới men, với các họa tiết hoa dây đơn giản. Loại hình chủ yếu ở Mường là chén nhỏ, đĩa.
Nếu bạch định Trung Quốc tồn tại đến tận thế kỉ 17 ở Mường thì gốm trắng Việt Nam chỉ thấy trong hai thời điểm, thế kỉ 11 - 12 và thế kỉ 15 - 16, với các loại hình hết sức đơn giản như bát, đĩa. Có một điều lạ là thế kỉ 17 - 18 trung tâm gốm Bát Tràng cung cấp không ít những tiêu bản đẹp, thuộc các đồ thờ tự, có màu men trắng đục, rạn to dưới men, cho các đình, chùa đồng bằng Bắc bộ, thì ở Mường không hề thấy.
Đặc trưng gốm trắng thế kỉ 15 - 16 của Việt Nam là sự tiến bộ về độ nung, nên men bóng, xương cứng, có tiếng kêu giống sứ.
6. Gốm men nâu.
Gốm men nâu ở Mường tìm thấy ở mức độ nhất định, với các loại hình: bát, đĩa, âu, ống nhổ v.v…
Gọi là men nâu, với gốc men chủ yếu là thành phần ô xít sắt, song do độ nung, xương và thành phần men v.v… đã tạo ra nhiều loại màu sắc khác nhau: nâu đen, nâu hạt dẻ, nâu lông thỏ, nâu rạn chân chim, nâu có điểm vàng, ngoài nâu trong men trắng v.v…
Nâu đen và nâu có điểm vàng, có các loại hình nậm rượu, âu v.v… Chúng thuộc các lò sản xuất ở Nam Trung Quốc, với niên đại thời Nam Tống và đầu thời Nguyên. Chúng thường nằm chung với đồ gốm celadon thời Nam Tống, trong các ngôi mộ có niên đại thời Lí ở Mường.
Màu nâu hạt dẻ, nâu màu lông thỏ, ngoài nâu trong trắng hoặc trắng xanh chủ yếu là sản phẩm gốm hoa nâu thời Trần của Việt Nam có gốc nguồn từ Hợp Lễ, Xóm Hống (Hải Hưng).
Sang thời Lê, gốm men nâu Việt Nam không hề suy giảm ở Mường. Men nâu thời kì này chỉ có bát, đĩa, với màu men nâu bóng, sáng, mỏng hơn so với thời Trần, họa tiết trang trí chìm, thường được bố trí trong lòng đĩa, bát, khuôn trong các cánh sen, cánh cúc với mô típ hoa dây, bát bảo. Riềm miệng lợi chậu, đôi khi cắt khấc cánh hoa.
Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu gốm Việt Nam và nước ngoài cho gốm men nâu chỉ có ở thời Lí và phần nào ở thời Trần. Giờ đây địa tầng gốm khu lò Hợp Lễ (Hải Hưng) (Trần Anh Dũng, Bùi Minh Trí, Phan Tiến Ba 19…) và thực tế từ sưu tập gốm mộ Mường, đã cho biết niên đại gốm men nâu kéo dài, chí ít từ thời Lí đến cuối thời Lê Sơ. Tôi nói chí ít, vì đến tận ngày nay, men nâu vẫn còn “hóa thạch” ở Phù Lãng (Hà Bắc).
Ở trong mộ Mường còn một loại hình khá phổ biến của gốm men nâu là loại bình rượu cần đủ loại. Cổ bình thấp, có 4 hoặc 6 quai ở vai, thân bổ ô, trang trí khắc vạch những họa tiết hoa lá, sen, rồng, lân, rùa, v.v… Những loại hình ấy, thường gặp trong những ngôi mộ Mường có niên đại từ thế kỉ 15 đến 17 - 18.
Về loại gốm men nâu này, hiện còn nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc và niên đại.
- Cố Giáo sư Nguyễn Văn Y cho đây là sản phẩm gốm của các lò Nam Trung Quốc, có niên đại thế kỉ 17. Thực tế, ý kiến này không dễ phủ nhận vì Cythiza O. Valdes và Kerry Nguyen Long đã cho biết những tiêu bản tương tự, có niên đại thế kỉ 17 - 18 ở Trung Quốc (Cythio, Valdes, Kerry Nguyên Long 1993).
- Rosana Brown cho đây là sản phẩm gốm Champa có niên đại tương đối thuộc thế kỉ 14 - 15 (Rosana Brown 1987).
- Các chuyên gia gốm sứ Nhật Bản thuộc nhóm của Giáo sư Hasebe, sau đợt khai quật phối hợp với các nhà khảo cổ học Việt Nam tại khu lò gốm Gò Sành (Bình Định) cũng nghiêng về nguồn gốc Champa của loại hình này, nhưng niên đại có muộn hơn đôi chút, giữa thế kỉ 15.
- Các nhà sưu tập tư nhân thì cho đây là sản phẩm của lò gốm Phù Lãng, với niên đại tương đối là thế kỉ 18.
Tôi không bình luận về các ý kiến nêu trên, trừ ý kiến thứ tư không thể chấp nhận. Hai loại ý kiến sau đều tỏ ra thích hợp với một sưu tập đồ sộ và phong phú loại gốm này ở Mường. Vấn đề phải xuất phát từ những hiện vật cụ thể, mới có thể trả lời chính xác về nguồn gốc và niên đại cho mỗi hiện vật.
7. Gốm men lam, men lục.
Các nhà sưu tập cổ vật gọi hai loại này là thúy lam, thúy lục để phân biệt với thúy hồng, thúy lĩnh. Đây là hai loại men trong dòng gốm độc sắc, một có màu xanh lam, một có màu xanh lục như rỉ đồng. Hai loại men này không tìm thấy nhiều ở Mường, nhưng có mặt từ thế kỉ 12 - 13 đến thế kỉ 15 - 17.
Như chúng ta đã biết, men lục ở Trung Quốc có từ thời Đường được các nhà nghiên cứu gốm sứ gọi là men Islam, có xương trắng, xốp, nhẹ, men lục nhẹ lửa phủ trên xương ấy, nên hay bong tróc. Men lam có từ thời Nguyên và phát triển rực rỡ vào thời Minh - Thanh. Ở Việt Nam hai loại men này chủ yếu có mặt vào thời Lê - Mạc. Men lục chỉ thấy loại nặng lửa, chứ không thấy nhẹ lửa như lục đường. Xương không trắng mà xám.
Men lam chủ yếu có mặt ở thời Mạc và phát triển khá rực rỡ vào cuối thế kỉ 17. Loại hình chủ yếu tìm thấy ở Mường là ấm hình cầu, trên có tượng nghê, v.v… Độ nung loại gốm này khá cao, xương gốm cứng, thô và dày. Họa tiết trang trí thường đắp nổi và khắc chìm dưới men.
Nhìn chung, men lam Việt Nam ít thay đổi và thời gian tồn tại ngắn ngủi. Men lam Trung Quốc đa dạng hơn, để đến giữa thời Thanh xuất hiện loại họa tiết có cẩn kim trên nền lam – một loại men vàng nhẹ lửa, dễ bong tróc qua thời gian. Màu lam Trung Quốc cũng có nhiều thay đổi từ lam nhạt sang lam thẫm, bóng vào thời Thanh.
8. Đồ gốm không men (sành).
Đồ sành ở trong các mộ Mường cũng khá phổ biến. Chúng chủ yếu là các lon sành, tham gia vào thành phần cấu trúc mộ. Ngôi mộ số 17 khu B Đống Thếch có tới 82 chiếc lon sành để lót nền mộ.
Loại hình thứ hai cũng khá phổ biến là những lọ sành đủ dạng hình và các loại hũ dùng làm bình rượu cần. Các loại lọ và hũ này thường đắp nổi cua, tôm, cá ở vai và khắc vạch sóng nước ở gần chân đế.
Đồ sành dường như được xem là những đồ gốm được sản xuất nhiều, nên kĩ thuật và mĩ thuật thấp. Thế nhưng, ở khu B Đống Thếch tìm thấy một hộp sành, trên nắp chạm rồng ổ rất tinh vi. Có thể nói là chiếc hộp sành có một không hai mà tôi được thấy.
Đồ sành có nguồn gốc từ các lò gốm Hải Hưng, với niên đại chủ yếu thuộc thời Trần, vì chúng tìm thấy trong các ngôi mộ có niên đại ấy.
Mặc dù cho đến nay, giới nghiên cứu gốm nói chung và Việt Nam nói riêng, còn khá băn khoăn khi định niên đại đồ sành qua các thời Trần - Lê, thậm chí Nguyễn, vì sự chuyển biến phong cách thời đại của chúng khó nhận ra. Sưu tập đồ sành trong các ngôi mộ Mường có niên đại tuyệt đối, thuộc thế kỉ 14, hẳn sẽ góp phần nhận nhìn đặc điểm của đồ sành thời đại này.
Thêm vào đó, đợt khai quật các khu lò sành ở Vạn Yên, Xóm Hống xã Hưng Đạo và Nhân Huệ, huyện Chí Linh (Hải Hưng) đã cho chúng tôi thấy được loại hình xương gốm, màu sắc, kĩ thuật và bố cục hoa văn của đồ sành thời Trần, qua một sưu tập khổng lồ.
Hai tư liệu ấy cho phép chúng ta nhận chân được đồ sành thời Trần không mấy khó khăn.
Đồ sành thời Trần chiếm ưu thế hơn đồ gốm men trong đời sống cư dân Đại Việt. Theo chúng tôi, đến thời Lê, khi đồ gốm men phát triển và dần chiếm ưu thế, đã dần đẩy ngành thủ công này co cụm lại thành một vài trung tâm như Thổ Hà, Hương Canh, Phù Lãng. Khi ấy đồ sành chỉ được sản xuất một số mặt hàng chuyên dụng nên sự ảnh hưởng của nó tới đời sống của cư dân Việt nói chung và Mường nói riêng hạn chế. Có lẽ vì thế, những ngôi mộ thời Lê Trung Hưng và Lê Sơ, không có mấy đồ sành trong đồ tùy táng của người Mường.
Trên đây, với một cách thống kê sơ lược, tôi đã thấy 8 loại đồ gốm sứ thuộc các dòng khác nhau của những trung tâm gốm sứ nổi tiếng của Việt Nam và các nước lân cận. Mặc dù đã vận dụng mọi nguồn tư liệu để có một cái nhìn khai quát về gốm sứ Mường, song rất có thể, vẫn chưa đầy đủ, bởi sự hiểu biết không thể hoàn thiện khi dưới lòng đất Mường còn ẩn chứa nhiều khu mộ cổ, chưa được khai quật.
Mới chỉ thế thôi, đã thấy gốm sứ ở Mường phong phú trong khi dân Mường không sản xuất được. Vậy chúng có mặt ở Mường bằng cách nào, trong khi rất nhiều dân tộc khác không hề thấy hiện tượng ấy? Để làm rõ được lí do, tôi xin bước đầu tìm hiểu, thông qua các tư liệu trực tiếp và gián tiếp của khảo cổ học, văn học dân gian và những dòng ghi chép ngắn ngủi của lịch sử thành văn.
II. SỰ CÓ MẶT CỦA ĐỒ GỐM SỨ Ở MƯỜNG.
Xã hội Mường cổ truyền được xem như là một xã hội thanh bình của văn hóa làng bản. Xã hội ấy không có chiến tranh nội bộ và cũng không hề thấy họ đi chinh phục bất cứ một miền đất nào, một dân tộc nào, để chiếm lĩnh của cải và giành chiến lợi phẩm. Một xã hội tưởng như chỉ đóng kín bởi núi non trùng điệp trong những thung lũng hẹp. Giao thông đường thủy thì trắc trở, nền kinh tế Mường tự tức tự cấp, đóng kín, không hề có sự giao lưu với bên ngoài. Thế nhưng, chỉ thông qua một sưu tập gốm sứ trong các mộ Mường cổ, đã thấy xã hội Mường, ngay từ khi mới thoát thai ra khỏi cộng đồng Việt - Mường chung, đã có sự giao lưu khá rộng rãi với bên ngoài. Họ không chỉ sử dụng đồ gốm sứ bình dân, mà còn dùng những đồ cao cấp. Chỉ lấy một hình ảnh gần gũi nhất, 20 năm trước, không chỉ các gia đình Mường, ngay cả các gia đình thành thị và nông thôn Bắc Bộ, được phân mua một chục bát gốm Bát Tràng, Hải Dương cũng là một ưu đãi lớn, chứ nói gì đến sứ Giang Tây (Trung Quốc). Thế mà, ngay từ thế kỉ 19, trong một thời gian tồn tại và phát triển của dân tộc mình, đồ gốm sứ nước ngoài đã nhan nhản - chứng tỏ sức mua và sử dụng của người Mường là khá lớn. Vậy chúng đến Mường bằng cách nào? Chỉ bằng buôn bán hay còn những lí do khác? Bằng các tài liệu dân tộc học, khảo cổ học và văn học dân gian, chúng tôi mạnh dạn phác dựng con đường đi của gốm sứ nước ngoài và gốm sứ Việt tới Mường, may chăng sẽ phần nào giải thích được một trong những hiện tượng khá hiếm hoi trong số những dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Trước hết, sự có mặt của gốm sứ, đặc biệt là gốm sứ cao cấp trong và ngoài nước ở xã hội Mường cổ, đã phản ánh một nền kinh tế Mường khá phát triển. Nó không phải như quan niệm bấy lâu này của các nhà dân tộc học, rằng kinh tế Mường chỉ là kinh tế nông nghiệp, nương rẫy, với một số ruộng nước của những thung lũng hẹp, cộng với nghề dệt cổ truyền. Những tàn tích khảo cổ học không cho biết một ngành nghề gì khác ở Mường, thì phải chăng sự phát triển kinh tế như thế ở Mường, thông qua sưu tập gốm sứ phong phú, phản ánh một nền kinh tế giao lưu, ngoại thương phát triển.
Giao thương phát triển, hẳn người Mường đã lấy kinh tế khai thác tự nhiên làm cơ sở, bởi sản phẩm nông nghiệp và dệt thủ công không thể dẫn đến hệ quả như trên trong xã hội Mường. Các lang Cun, các quý tộc Mường đã sử dụng dân công để khai thác gỗ, lâm sản quý, thú quý v.v… để đổi lấy những hàng hóa cao cấp ấy của miền xuôi. Các thương nhân miền xuôi và Chăm pa đã tham gia tích cực vào mạng lưới giao thông ấy, thông qua bài mo Klon - đông (mo trống đồng). Họ đã đem hàng hóa từ xuôi lên bán và lấy lâm thổ sản quý xuống xuôi trao đổi.
Kinh tế phát triển thúc đẩy nhanh sự phân hóa giai cấp. Xã hội Mường cổ truyền được xem như một trường hợp biệt lệ của Việt Nam, đã hình thành được một tầng lớp quý tộc lớn, có địa vị không chỉ ở Mường, mà có ảnh hưởng lớn tới chính quyền phong kiến trung ương tập quyền các thời Lí - Trần - Lê.
Những khu mộ địa to lớn với kiến trúc mộ đồ sộ, kiên cố, là biểu tượng quyền uy của dòng tộc Lang Mường. Những mộ chí ghi rõ dòng họ Đinh, Quách có tước vị cao của vua ban, có chức lớn đến Vệ Cấm Y…. đã nói rõ thân phận của dòng họ và từng cá nhân, mà triều đình phong kiến làm bệ đỡ cho họ, để họ hưởng lộc triều đình và mặc sức bóc lột các Mường họ cai trị. Cũng do xã hội Mường tạo dựng được một tầng lớp quý tộc cao, có quan hệ mật thiết với triều đình phong kiến, nên hàng năm họ được hưởng lộc vua ban. Những lộc ấy là lụa là, gấm vóc, trống đồng, và trong đó hẳn phải có gốm sứ.
Vả lại, chính quyền phong kiến trung ương cũng muốn níu kéo họ để tránh cát cứ. Bằng việc phong tước, ban chức, các chính quyền từ Lí, Trần đến Lê đều có hiện tượng gả bán công chúa cho các tù trưởng địa phương. Rất có thể, họ không phải là công chúa của chính cung hoàng hậu, mà chỉ là con gái của các phi, tần, mĩ nữ.
Mỗi lần gả bán, là mỗi lần triều đình cho mang theo của hồi môn lên Mường. Trong số những của cải ấy, không thể không có gốm sứ. Những chuyện tình đầy đau thương và nước mắt giữa ông Lang Cun Mường Thàng với một công chúa thời Lí, được người dân Dũng Phong, huyện Kì Sơn (Hòa Bình) kể lại qua trường ca Mường “Vườn hoa núi cối” đã nói rõ hiện tình ấy của lịch sử. Đó là ba lí do đồ gốm sứ lên Mường. Tuy nhiên, con đường buôn bán và trao đổi vẫn giữ một vai trò chủ đạo.
Thông qua những ngôi mộ được khảo sát và khai quật ở Mường Hòa Bình, chúng tôi đã thấy được nguồn gốc và niên đại của những đồ gốm sứ, từ đó, bước đầu vạch ra những lí do để đồ gốm sứ ấy tới Mường, thông qua tài liệu khảo cổ học làm chính, có chút ít viện dẫn tới tài liệu của văn học dân gian và lịch sử thành văn. Những lí do ấy, cũng là những con đường mà gốm sứ đã đi. Tuy nhiên, các con đường mới chỉ được vạch lối phát quang, chưa thành lối mòn. Rất có thể, những con đường khác chưa được tìm ra, hoặc không hẳn giống với con đường của gốm sứ tới Mường Vĩnh Phú và Thanh - Nghệ trong khi giới khảo cổ học chưa với tay được tới dân tộc Mường ở các tỉnh này. Như thế, gốm sứ ở Mường vẫn còn ¾ khoảng trống. Hẳn những lí do của những con đường gốm sứ mà tôi vạch ra cho Mường Hòa bình phải chăng chỉ là những giả thiết công tác mà thôi.
TS. Phạm Quốc Quân
Tài liệu dẫn:
1. Bùi Minh Trí, Phạm Quốc Quân 1994. Gốm Hizen Nhật Bản phát hiện được ở Việt Nam. Khảo cổ học, số 4, tr 34 - 51.
2. Cylthio O. Valdes, Kerry Nguyen Long 1993. A thousand years of Stoneware jars in Philippines, Manila.
3. Hà Văn Cẩn 1996. Về gốm tiền hoa lam phát hiện được ở Xóm Hống - Côn Sơn - Hải Hưng. Bài đọc tại Hội nghị thông báo Khảo cổ học năm 1996.
4. Hồng Sử 1996. Gốm hoa nâu ở đâu? Bài đọc tại Hội nghị thông báo Khảo cổ học năm 1996.
5. Nguyễn Văn Sơn 1994. Tiểu cảng An Quý và vài tư liệu về tình hình nội thương thời Mạc ở Hải Hưng. Thông báo khoa học Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, tr 76 - 83.
6. Phạm Quốc Quân 1994. Mộ Mường cổ ở Hòa Bình và Hà Tây. Luận án PTS. Tư liệu Viện Khảo cổ học.
7. Phạm Quốc Quân 1993. Suy nghĩ về mộ thời Lí. Khảo cổ học, số 1, tr 64 - 72.
8. Phạm Quốc Quân 1995. Từ niên đại mộ Mường cổ - Suy nghĩ về niên đại điểm tách ra của người Mường khỏi khối Việt Mường chung. Khảo cổ học, số 1, tr 18 - 30.
9. Phạm Quốc Quân, Nguyễn Đình Chiến 1995. Về chiếc bát có ghi niên hiệu “Hoàng Minh Vạn Lịch niên chế”. Khảo cổ học, số 4, tr 52 - 62.
10. Phạm Quốc Quân 1994. Gốm hoa nâu, tư liệu cũ, nhận thức mới. Khảo cổ học, số 2, tr 89 - 100.
11. Rosana Brown 1987. The ceramics of South East Asia – Their dating and indetification. Second edition. Oxford - New York, Plate XV.
12. Trần Anh Dũng và Lại Văn Tới 1986. Mộ Mường cổ: cấu trúc và táng tục. Khảo cổ học, số 3, tr 31 - 42.
13. Trần Anh Dũng, Bùi Minh Trí, Phan Tiến Ba... Báo cáo khai quật khu sản xuất gốm Hợp Lễ (Hải Hưng). Tư liệu Viện Khảo cổ học.