Lá đề là loại hình trang trí phổ biến trên mái các di tích kiến trúc có niên đại từ thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 15 ở miền Bắc Việt Nam. Thống kê sơ bộ cho thấy có gần 40 di tích phát hiện thấy hình lá đề trang trí trên mái các di tích kiến trúc như cung điện, chùa, tháp, đền, đàn tế, lăng mộ... Hoa văn trang trí trên lá đề là các loại hoa văn hình rồng, chim phượng, ngọc báu, hoa lá, cá hóa rồng, hình con hươu, ngọn lửa... với nhiều biến thể khác nhau. Trong đó, hoa văn hình con hươu trang trí trên lá đề là hoa văn không phổ biến. Loại hoa văn này chỉ thấy trang trí trên lá đề cân xứng lợp trên mái ngói di tích Lỗ Giang (Thái Bình) và Ly Cung (Thanh Hóa).
Ngói lợp mái kiến trúc cung điện thời Trần khai quật tại hành cung Lỗ Giang, tỉnh Thái Bình (Nguồn Internet)
Hình hươu trên lá đề ở di tích hành cung Lỗ Giang (Thái Bình) thể hiện hình một con hươu đang chạy, đầu ngoảnh lại phía sau. Hươu có dáng thon, sừng thể hiện là những dải dây hoa lá uốn cong.
Hình hươu trên lá đề ở di tích Ly Cung (Thanh Hóa) cũng thể hiện hình một con hươu đang chạy trên nền hào quang là những tia lửa nhỏ. Hươu có dáng thon thả, đầu ngẩng cao, sừng thể hiện là cành cây ba lá, lưng uốn cong, hai chân thể hiện bước nhảy nhẹ nhàng.
Qua tư liệu trên bước đầu có nhận xét như sau:
1.Hươu là đề tài trang trí phổ biến trong nghệ thuật Trung Quốc và là biểu tượng của “thọ” và “lộc”. Trong nghệ thuật Ấn Độ, hươu là biểu tượng của tôn giáo dùng để nâng cao giác ngộ. Trong Phật giáo hươu có vị trí quan trọng. Tương truyền hươu là hóa thân lần thứ 11 của thần Gautama và bài thuyết pháp đầu tiên của ngài là khu đất giành riêng cho hươu thuộc vùng Bénarès (K.Ball 1974: 195). Hươu cũng hóa thân phật Bồ Tát giải cứu con người khỏi nỗi tuyệt vọng (Jean Chealier, Alain Gheebrant 1997: 463). Như vậy, hình ảnh con hươu gắn liền với phật giáo và mang ý nghĩa mong muốn mang lại điều tốt lành và giải cứu con người.
2.Lá đề đất nung trang trí hình hươu là những di vật quý lần đầu tiên phát hiện thấy trong các là di tích hành cung Lỗ Giang, thời Trần và di tích Ly Cung, thời Hồ.
Hành cung Lỗ Giang (còn gọi là cung Kiến Xương) là một hành cung lớn được xây dựng dưới thời vua Trần Anh Tông trên đất Long Hưng, nay di tích này thuộc địa phận xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà (Thái Bình). Theo sử liệu di tích này liên quan đến bà Khâm từ bảo thánh hoàng thái hậu - mẹ vua Trần Anh Tông mất và đây cũng là nơi gắn liền với sự kiện vị vua trẻ tuổi Trần Hiến Tông mất vào ngày 11/6/1341 Tân Tị năm thứ 13 (Đại việt sử ký toàn thư 1971, trang 534, 624).
Ngói lợp mái kiến trúc cung điện thời Trần khai quật tại hành cung Lỗ Giang, tỉnh Thái Bình
(Nguồn Internet)
Về di tích Ly Cung, theo các nguồn thư tịch cổ Ly Cung (trước có tên là cung Bảo Thanh) được vua Hồ Quý Ly xây dựng rồi bắt ép vua Trần Thuận Tông ra ở đây. Sử cũng đề cập đến sự kiện hoàng thái tử Án (con vua Trần Thuận Tông cũng lên ngôi ở cung Bảo Thanh (Đại việt sử ký toàn thư 1971, tập II, trang 222-223). Ly Cung được dựng ở phía Tây Nam núi Đại Lại xã Kim Âu, huyện Vĩnh Lộc, nay là huyện Vĩnh Thạch, tỉnh Thanh Hóa.
Như vậy, di tích Ly Cung và Lỗ Giang là hai cung lớn thời Trần (cung Kiến Xương), thời Hồ (cung Bảo Thanh) và đều liên quan đến các sự kiện của mất hoặc bắt ép nơi ở của vua Trần. Lá đề liên quan đến Phật giáo. Sự phổ biến của lá đề trên mái kiến trúc thời Lý, Trần và Hồ phản ánh giai đoạn lịch sử với Phật giáo là tôn giáo chính. Hình hươu cũng liên quan đến Phật giáo và là hóa thân của đức Phật. Lá đề trang trí hươu chỉ thấy trang trí trên mái kiến trúc hai cung này. Kết hợp các yếu tố trên có thể thấy lá đề trang trí hình hươu trên mái kiến trúc ở di tích Lỗ Giang và Ly Cung bày tỏ ước nguyện giải phóng khỏi nỗi tuyệt vọng và gửi gắm niềm tin vào tín ngưỡng Phật giáo trong thời đại Phật giáo đang thịnh trị. Thông qua hoa văn trang trí trên kiến trúc đã phản ánh hiện thực và lịch sử Phật giáo giai đoạn này.
TS. Ngô Thị Lan
Tài liệu dẫn
1.Katherine Ball 1974. Những motif trang trí trong nền nghệ thuật Đông Dương. Tư liệu Viện Khảo cổ học.
2.Jean Chevalier, Alain Gheerbant 1997. Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. Hồ Chí Minh, Nxb.Đà Nẵng.
3.Đại Việt sử ký toàn thư 1971, tập II, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.