Gốm men ngọc - người phương Tây thường gọi là céladon - xuất hiện muộn mằn hơn so với sự ra đời của chính loại men này. Đâu đó, vào thế kỷ 18 qua một nhân vật nổi tiếng trên kịch trường Paris tên là Céladon luôn mặc bộ trang phục có màu xanh thanh thiên, cùng lúc đó gốm men Trung Quốc tràn ngập thị trường Âu Châu - cũng có màu xanh da trời tương tự, nên đương thời gọi luôn loại gốm ấy là céladon. Loại gốm này còn những tên gọi khác, ví dụ: Đông Thanh (như có quan hệ tới vùng ven biển phía Đông xứ Thanh - nơi xuất lộ nhiều tàn tích của loại gốm có liên quan tới những tiểu cảng thời Đại Việt, hẳn chỉ được coi như là những gợi ý đầy chất lãng mạn của lịch sử, mà cũng chẳng mấy tác hại tới sự hưng suy của chính dòng gốm men này, khi tự nó đã biểu lộ trong dòng chảy văn hóa nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng).
Gốm men ngọc ra đời khá sớm ở Trung Quốc. Nếu như ngược dòng thời gian về 10, 15 thế kỷ trước và chấp nhận sự khởi nguồn của dòng gốm men này, với khái niệm ưa dùng thì vào thời Lục Triều - Đường, đã là thời tiền céladon, với những tiêu bản được phủ men màu xanh, cũng gốc ôxit đồng, nhưng còn mỏng, được nung với độ lửa thấp, trên một xương gốm ít kao-lin, nên dễ bị bong tróc, mà những người yêu cổ ngoạn thường gọi đó là men giấy. Đến cuối thời Đường - Ngũ Đại, men xanh ngọc đã đạt đến một trình độ khá cao, tương đương với gốm men Bạch Định, kêu như chuông. Tuy nhiên, màu xanh thời Ngũ Đại chưa có thể xem như viên ngọc quý.
Bước sang thời Nam Tống, với trung tâm gốm sứ nổi tiếng Long Tuyền, men ngọc Trung Hoa đạt tới sự phát triển đỉnh điểm, với một lớp men ngọc dầy sâu thẳm, có những đường rạn vỏ trứng lộ ra dưới lớp men màu hồng nhạt, khiến người thưởng ngoạn tưởng đâu như một viên ngọc. Người ta còn “thần thánh” thêm cho tính thực dụng của gốm men ngọc Trung Hoa, rằng, khi đặt đồ ăn trong đó sẽ không bị ôi thiu, vì nó toát ra một nhiệt độ cần thiết, mát dịu. Không hiểu có quá cường điệu hay không, xong quả là sự mát mẻ đã toát ra từ màu men, lại thêm thành phần xương nhiều kao-lin, khiến hơi lạnh truyền vào ta như là đá. Có lẽ, cũng vì thế, người Âu - Mỹ gọi loại gốm này là stoneware.
Tuy nhiên, chất sâu thẳm của ngọc quý céladon Long Tuyền chỉ lóe sáng một thời gian ngắn ngủi, trọn triều Nam Tống và phần nào ở đầu thời Nguyên rồi chỉ tỏa sáng ở những lò gốm vùng ngoại Long Tuyền và nhường chỗ cho các dòng men khác. Nhưng tại những lò ấy, sự tỏa sáng chủ yếu ở số lượng nhiều hơn, còn chất xanh ngọc của chính tên gọi ấy không còn nữa, chúng trở nên thô phác và nhạt nhòa một màu xanh ô-liu đến khó chịu.
Gốm men Việt có lẽ chịu ảnh hưởng từ các trung tâm gốm ngoại Long Tuyền.
Một nữ học giả Pháp trẻ tuổi, mấy năm trước đây có đến làm việc tại Viện Khảo cổ học. Trong bao câu hỏi được đặt ra để thảo luận, bà có nêu một vấn đề về sự có mặt hay không của gốm men ngọc Việt, với loại hình bát chóp nón, sâu lòng, trôn nhỏ, bên ngoài đúc nổi hoa văn cánh súng. Cho dù có tế nhị, song từ cõi sâu thẳm, chúng tôi vẫn nhận ra trong câu hỏi ấy là sự gợi mở về mối dây liên hệ giữa loại bát chóp nón Long Tuyền - dường như là một loại hình đặc trưng của men ngọc Nam Tống, với men ngọc thời Lý Việt Nam. Quả thật, ở Việt Nam có loại bát như vậy, hay chính xác hơn, gần giống như thế, bởi lòng không sâu, trôn không nhỏ, đáy không có men, xương không nhiều kao-lin, men không xanh như ngọc, được nung với kỹ thuật chồng xếp, còn để lại dấu vết hòn kê, khác hoàn toàn với nung bao của Trung Quốc, chúng được coi như là một sáng tạo có chủ kiến của thợ thủ công Việt hay là một sự sao chép “vụng dại” do kỹ thuật đổ khuôn sửa trên bàn xoay còn chưa đạt đến sự điêu luyện của kỹ thuật? Tuy nhiên, nếu so sánh trên ảnh và hình vẽ thì khó có sự phân biệt.
Có người cho đó là sản phẩm của gốm thời Trần, nhưng chúng tôi nghiêng theo ý kiến cho đó là gốm thời Lý khá đặc trưng, bởi tính muộn màng hay “thời chậm” của gốm Việt Nam so với Trung Quốc dường như đã được đa số học giả gốm sứ nước ngoài định khoảng trên dưới nửa thế kỷ. Vả lại, khảo sát phức hợp gốm men ngọc ở triều đại sau Lý, hoàn toàn vắng bóng màu men này, trong khi màu men ngọc thời Trần đa sắc hơn. Sở dĩ cần có tiêu bản trên đây để đoán định cho gốm men ngọc thời Lý, bởi lẽ, cho đến nay, khảo cổ học Việt Nam chưa tìm thấy một vết tích lò nung nào của thời Lý, trong khi những tín hiệu đầu tiên ở vài chục năm đầu thế kỷ 20 qua những phát hiện đậm đặc khi làm con đường sắt xuyên Việt tại Thanh Hóa, đã gặp gỡ gốm thời Lý tại nơi đây, với thuật ngữ gốm Thanh Hóa, mà nay, sưu tập ấy chủ yếu đang nằm ở Bảo tàng Hoàng gia Bỉ. Đến nay, những sản phẩm gốm Lý màu trắng, gốm Lý hoa nâu chắc chắn được khẳng định, đã gián tiếp mách bảo chúng ta rằng, gốm céladon Lý đã từng góp mặt trong đời sống cộng đồng Đại Việt. Điều ấy càng khẳng định hơn với những sản phẩm đầy tính thuyết phục của gốm men ngọc thời Trần.
Sang thời Trần, gốm men ngọc Việt hiện hình rõ hơn, với những loại hình đa dạng, sắc màu phong phú. Những sản phẩm men ngọc còn ghi rõ “Thiên Trường Phủ chế” ở dưới trôn bát là một minh chứng tại quê hương nhà Trần, nay thuộc ngoại thành Nam Định, đã sản xuất gốm men ngọc. Nhìn tiêu bản có minh văn này, so sánh với gốm men ngọc thời Nguyên (Trung Quốc) thấy có sự tương đồng về kiểu dáng và mẫu mã, khiến chúng tôi càng nghĩ tới sự liên hệ khăng khít giữa bát chóp nón thời Lý và Tống để rồi càng tin hơn loại bát men ngọc chóp nón vừa nhắc tới ở trên là của thời Lý.
Ngoài loại đĩa “Thiên Trường Phủ chế” có màu xanh ngọc thẫm, tương đối giống với màu xanh ngọc bát chóp nón thời Lý, men ngọc thời Trần xuất trình hàng loạt âu, ấm, gùa, ống cắm tranh, thủy trì v.v… có màu men xanh ngả vàng xám và màu vàng chanh. Nhìn sưu tập ấy, chúng ta dễ liên tưởng đến một vài tiêu bản gốm men ngọc thời Nguyên, song tính sáng tạo trong các loại hình đã bắt đầu hé mở. Loại hình khá đặc trưng của gốm men ngọc Trần, chính là ấm quả dưa, thân tròn, khía múi, vòi là hình đầu phượng, quai bán khuyên, nắp lá sen, đôi khi có trang trí hoa văn dây chìm ở vai và thân. Với kiểu dáng tròn trĩnh, bầu bĩnh, mềm mại ấy, gốm men ngọc Trần dường như có sự đối nghịch - cho dù không hoàn toàn - với loại ấm miệng đấu, thân lục giác, chân đế cao của sứ Nguyên.
Cũng có những tiên bản khá độc nhất của gốm men thời Trần, đó là ấm đắp nổi quai hình rồng. Một con rồng có đầu là vòi ấm qua nắp sang phía bên kia là thân và đuôi, có móng khỏe khoắn, dường như có sự hấp thụ qua lại tinh tế với rồng trong điêu khắc đá cùng thời, song cũng phảng phất lối tạo hình rồng thời Nguyên. Tuy nhiên, với lối tạo dáng vai tròn xuôi, đáy bằng, người quan tâm tới tạo hình, vẫn thấy đó là sự sáng tạo của người thợ gốm Việt.
Những đề tài trang trí trên gốm men ngọc thời Trần không mấy ấn tượng - âu cũng là tính phổ quát của hình họa in khuôn và khắc que trong nghệ thuật gốm của tất cả các quốc gia. Trên các sản phẩm gốm men ngọc thời Trần, chúng ta thường gặp đề tài hoa lá, với sự thể hiện cách điệu hoặc tả thực hoa sen, hoa cúc, chữ Hán… Đề tài con người, muông thú hiếm hoi, thảng hoặc mới bắt gặp những cậu bé nô đùa trong đầm sen, tích cổ Trung Hoa gọi là “Liên sinh quý tử”, cũng có khi ta nhìn thấy những chú cá chép được khuôn cứng trong lòng đáy bát, nhưng tính sinh động của hội họa tả thực vẫn không mất đi một chút nào, khi xem xét tỉ mỉ từ nét vẽ đuôi, vây, vẩy, mắt.
Kỹ thuật in khuôn và khắc que còn được bổ trợ thêm bằng kỹ thuật đắp nổi. Cho dù, những hình đắp nổi trên gốm men ngọc Trần không mấy phong phú như ở các giai đoạn sau, song những bông hoa nhiều cánh được thể hiện trên vai các loại bình, lọ, đã khiến cho nghệ thuật gốm Việt không thiếu vắng những kỹ thuật cơ bản của nghề gốm nói chung, gốm độc sắc céladon nói riêng.
Công nghệ nung của gốm Việt có sự khác biệt ở giai đoạn này. Nếu như, những sản phẩm cùng loại, cũng vào thời gian này, ở Trung Quốc, đa số được nung trong bao hoặc úp vào nhau để nung, tạo ra những sản phẩm cao cấp, nhưng hạn chế rất nhiều đến số lượng của sản phẩm, thì ở Việt Nam, cách nung chồng xếp với các hòn kê 5 mấu, 3 mấu, vành khăn, nay dấu tích còn để lại trên khí vật, quả thật chẳng mỹ thuật chút nào, song, đương thời, đã đáp ứng được nhu cầu thị trường.
Cho dù màu men ngọc cùng một gốc ôxit đồng, nhưng ở thời Trần đã khá đa sắc, tuy có cùng một gam màu (có người e ngại gọi chung những đồ gốm có màu xanh xám, xanh ngả vàng, vàng chanh… là céladon), đó cũng chính là nét đặc thù của gốm men ngọc Việt thời này. Sở dĩ có nhiều màu sắc như thế, một phần là do có nhiều trung tâm gốm khác nhau sản xuất, nhưng phần khác, đa só ý kiến cho rằng, nhiệt độ nung trong lò Việt khi ấy, không khống chế nổi, nên mẻ này ra một màu, mẻ khác ra một màu. Có khi trong cùng một mẻ lò, nơi nhiều lửa, độ nung cao, gây hiện tượng hỏa biến, tạo ra các màu sắc khác nhau, trên những sản phẩm có cùng men gốc. Cũng có nguyên nhân, công thức pha chế men của các lò gốm Việt không thật quy chuẩn giữa các mẻ, lại được thể hiện trên một loại xương gốm ít kao-lin, nên màu sắc không đồng đều, độ sâu thẳm không được như gốm men ngọc Trung Hoa. Quả thật, cho đến nay, cũng chưa một ai khẳng quyết nguyên nhân nào là chủ yếu và thực sự đó có phải là khách quan bất khả kháng của người thợ thủ công Việt hay không, vẫn còn là một câu hỏi lớn. Tuy vậy, những sản phẩm gốm men ngọc Việt Nam để lại tới hôm nay, vẫn có một cái gì đó hấp dẫn bởi sự khác lạ của màu sắc và thô phác của tạo dáng, không thể trộn lẫn với bất cứ loại gốm nào khác của các quốc gia lân cận đương thời.
Sang thời Lê Sơ, dường như gốm Việt nói chung, gốm men ngọc Việt nói riêng có một cuộc cách tân lớn về màu sắc, hình họa và mẫu mã. Trong khi gốm hoa lam men trắng như một ngôi sao sáng trên bầu trời gốm sứ thế giới thì các dòng gốm khác, trong đó có gốm men ngọc triển nở theo một xu hướng quy chuẩn hơn với sự hoàn thiện về quy trình sản xuất. Nhìn những hiện vật gốm men ngọc thông qua các sưu tập khá đồ sộ khai quật được ở Chu Đậu, Hùng Thắng (Hải Dương) chúng ta dường như không còn gặp nhiều sắc độ trong màu men céladon nữa, mà chỉ thấy một màu xanh thẳm, mỏng, không bóng trên các bát, tước, đĩa, lư hương… Đương nhiên, đó chỉ là một nhận xét đại quan, còn bất cứ loại gốm nào, trong mọi thời đại, đều sản sinh ra những sản phẩm diêu biến không ngờ.
Sở dĩ có hiện tượng ổn định màu sắc men rất có thể, cũng nằm trong quy trình hoàn thiện công nghệ gốm nói chung của Việt Nam thời Lê Sơ. Tôi chưa thật am tường đầy đủ ý kiến của các nhà nghiên cứu hiện nay, song nhìn vào sự hoàn thiện của công nghệ gốm men trắng văn in, xương mỏng như giấy - được xem như đạt tiêu chuẩn của sứ Bạch Định thời Lê Sơ, hẳn chúng ta càng tin hơn vào đỉnh điểm công nghệ gốm Việt vào thời gian này. Tuy đạt tới đỉnh điểm, nhưng gốm Việt vẫn có phong cách riêng trong truyền thống sản xuất gốm của mình, nên những người quan tâm tới gốm sứ Việt Nam như John Stevenson và John Guy trong ấn phẩm được xuất bản gần đây nhất ở Mỹ, đã phải thốt lên: “Gốm Việt Nam có một truyền thống riêng biệt”.
Quả thật, gốm men ngọc thời Lê Sơ thông qua các sưu tập được khai quật ở Chu Đậu, Hùng Thắng, đã đạt được sự ổn định về màu men, và có thể không ngần ngại gọi những sản phẩm ấy là céladon. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với men ngọc Trung Quốc ở Long Tuyền, thì men ngọc Việt vẫn có một cái gì đó dài dại, không thật là ngọc. Còn, đương nhiên, với các sản phẩm thuộc các lò ngoại Long Tuyền, thì men ngọc Việt thời này có sự hấp dẫn hơn, mà chúng tôi không muốn nói là sự trội vượt. Mọi sự so sánh sẽ là khập khiễng, song dường như, men ngọc thời Lê Sơ đang muốn vươn tới cái gọi là “ngọc” Long Tuyền, nhưng chất đất tạo xương đã không cho phép, do vậy, nếu như ai đó không thật bằng lòng, chúng tôi vẫn yêu mến sự “hoang nguyên” của gốm men ngọc thời Lý - Trần hơn nhiều. Vì lẽ đó, những nghệ nhân gốm hiện nay chịu bó tay trước những đơn đặt hàng copy gốm men ngọc Lý - Trần, trong khi gốm céladon nhái Long Tuyền tràn ngập thị trường Việt Nam theo con đường nhập khẩu tiểu ngạch.
Có lẽ bước sang nửa cuối thế kỷ 16 và tiếp đến những thế kỷ sau, gốm men ngọc Việt không còn tồn tại với tư cách một dòng gốm đáng được lưu tâm, nếu không muốn nói là kết thúc. Đó cũng là câu hỏi lớn của lịch sử, khi gốm men ngọc láng giềng Trung Hoa vẫn tồn tại theo chiều hướng suy thoái dần, để xuất trình loại men ngọc trong, mỏng, xanh nõn chuối hay da trời, thiếu chiều sâu, khiến khí vật trở nên dài dại vào thời Thanh. Nhưng cũng chính lúc ấy, men ngọc Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường Âu Châu, trở thành một mặt hàng ưa chuộng, mà chúng tôi đã nhắc tới chút ít ở phần đầu bài viết này. Dù là một câu hỏi lớn, cần chờ giải đáp thấu đáo hơn, song chúng tôi vẫn tạm nghĩ rằng, gốm men ngọc Việt chịu chung số phận với ngành nghề thủ công làm gốm của người Việt, không có thị trường xuất khẩu, trong khi thị trường trong nước không mấy ưa dùng loại men này, nên đã sớm lụi tàn, nhường chỗ cho đồ gốm thờ tự rực rỡ phát huy vào thời Mạc.
Đến hôm nay, gốm men ngọc Việt Nam cũng không hề được phát triển, ngoại trừ một vài đơn đặt hàng gốm mỹ thuật và dân dụng của nước ngoài do trung tâm gốm Bát Tràng sản xuất. Tuy nhiên, khảo sát các lò gốm ở đây, mặt hàng này không nhiều, trong khi gốm vẽ lam và vẽ màu thịnh đạt hơn gấp nhiều lần.
Các trung tâm gốm ở các tỉnh phía Nam, ngoài Gò Sành (Bình Định) được các nhà nghiên cứu khá thống nhất xếp vào thế kỷ 15, với chủ nhân của nó là người Chăm, ít nhiều có gốm men ngọc, còn hầu hết, không sản xuất loại này, cho dù có sử dụng loại men gốc ôxit đồng, nhưng lại tạo ra một màu men khác, xanh dương thẫm, mà nay ta quen gọi là gốm Lái Thiêu, gốm Cây Mai.
Có thể nói, gốm men ngọc Việt Nam không phát triển và thịnh đạt như gốm men trắng vẽ lam, gốm hoa nâu, song dường như, với những dòng ghi chép ngắn ngủi trên đây, bạn đọc cũng có thể thấy được sự phát triển nội tại của dòng gốm này trong mối quan hệ tương tác với gốm men ngọc Trung Hoa để được định hình như một bản sắc riêng biệt, thiết nghĩ, cũng là một thành tựu đáng tự hào. Trên cây đại thụ gốm sứ Việt Nam, nếu lấy gốm men độc sắc làm một cành phả hệ, thì gốm men ngọc chắc chắn là một nhánh lớn đáng được quan tâm nghiên cứu.
TS. Phạm Quốc Quân