Thứ Ba, 08/10/2024
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

07/06/2018 03:58 1920
Điểm: 5/5 (1 đánh giá)
Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Thái (1650 - 1691) và vương phi Tống Thị Lĩnh. Ông được đình thần tôn lên kế vị chúa Nguyễn Phúc Thái vào năm 1691, trở thành vị chúa Nguyễn thứ sáu trị vì Đàng Trong. Lên ngôi lúc mới 17 tuổi, ở ngôi 34 năm, Nguyễn Phúc Chu là một trong những vị chúa Nguyễn tạo dựng nhiều công nghiệp ở Đàng Trong.

Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Thái (1650 - 1691) và vương phi Tống Thị Lĩnh. Ông được đình thần tôn lên kế vị chúa Nguyễn Phúc Thái vào năm 1691, trở thành vị chúa Nguyễn thứ sáu trị vì Đàng Trong. Lên ngôi lúc mới 17 tuổi, ở ngôi 34 năm, Nguyễn Phúc Chu là một trong những vị chúa Nguyễn tạo dựng nhiều công nghiệp ở Đàng Trong.

Chúa Nguyễn Phúc Chu còn là tác gia lớn của văn học Đàng Trong. Ông sáng tác nhiều thơ văn, hiện vẫn còn lưu truyền. Chúa quy y Phật, lấy pháp danh là Thiên Túng đạo nhân, nên khi sáng tác thi văn thường ghi ba chữ Hán Đạo nhân thư ở cuối các tác phẩm.

Chúa Nguyễn Phúc Chu là người say mê ký kiểu đồ sứ ở Trung Hoa để đưa về dùng trong vương phủ. Những món đồ sứ ký kiểu của chúa Nguyễn Phúc Chu thường đề các thi phẩm do chúa trước tác, kèm theo hình vẽ minh họa nội dung các thi phẩm ấy. Đáng chú ý là những chiếc tô sứ hiệu đề Thanh ngoạn, có viết những bài thơ của chúa ca tụng những danh lam thắng tích ở Thuận Hóa - Quảng Nam xưa như: Thuận Hóa vãn thị (vịnh cảnh chợ chiều ở xứ Thuận Hóa), Thiên Mụ hiểu chung (vịnh cảnh chùa Thiên Mụ vào buổi sáng), Hà Trung yên vũ (vịnh cảnh chùa Hà Trung bên đầm Cầu Hai), Ải lĩnh xuân vân (vịnh cảnh mưa xuân trên núi Hải Vân), Tam Thai thính triều (vịnh cảnh núi Non Nước và chùa Tam Thai) Bên cạnh mỗi bài thơ là một bức tranh sơn thủy, vẽ cảnh sắc của địa danh mà bài thơ miêu tả. 

Chiếc tô sứ ký kiểu vẽ cảnh núi Hải Vân,

minh họa bài thơ Ải Lĩnh xuân vân của chúa Nguyễn Phúc Chu

Bài thơ Ải Lĩnh xuân vân trên chiếc tô sứ do chúa Nguyễn Phúc Chu ký kiểu

Trong số đó, có hai chiếc tô đề bài thơ Ải lĩnh xuân vân viết về núi Hải Vân và bài thơ Tam Thai thính triều vịnh cảnh núi Tam Thai (núi Non Nước), là những bài thơ chúa Nguyễn Phúc Chu vịnh về hai danh thắng nổi tiếng của xứ Quảng ngày trước.

* Ải lĩnh xuân vân

Bài thơ viết trên những chiếc tô sứ hiệu đề Thanh ngoạn vẽ cảnh núi Hải Vân. Ải lĩnh là tên cũ của dải núi Hải Vân ở tây nam kinh đô Huế. Xưa kia, trên đỉnh núi có xây một cửa ải nên gọi là Ải lĩnh, nhưng dân gian thường gọi là Ngải lĩnh, vì trên núi có mọc nhiều cây ngải. Tương truyền, đến mùa cây ngải nở hoa, gió thổi cánh hoa bay xuống biển, cá ăn được sẽ hóa thành rồng. Năm 1826, vua Minh Mạng cho trùng tu cửa ải, xây làm hai cửa. Cửa trước có tấm biển đá khắc dòng chữ Hán Hải Vân quan. Cửa sau cũng có tấm biển đá, khắc dòng chữ Hán Thiên hạ đệ nhất hùng quan.

Phiên âm:(1)

Ải lĩnh xuân vân

Việt Nam  xung yếu thử sơn điên

Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên(2)

Đãn kiến vân hoành tam tuấn lĩnh

Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên

Lãnh triêm tu phát phi đồng tuyết

Thấp tiễn y thường khởi thị tuyền

Duy nguyện hải phong xuy tác vũ

Chính nghi thiên lý nhuận tang điền

Đạo nhân thư

Dịch thơ:         

Mây xuân trên Ải lĩnh

Xung yếu về Nam có núi này

Khác chi đất Thục điệp non xây

Bóng giăng, chỉ thấy ba tầng lớn

Người ở, nào hay mấy đỉnh mây

Mi tóc lạnh, dù không tuyết rụng

Áo xiêm ngâm, dẫu chẳng nguồn vây

Chỉ mong gió bể đem mưa tới

Muôn dặm dâu xanh bát ngát

Đạo nhân viết

Bốn câu đầu của bài thơ này cũng được khắc in trong sách Ðại Nam nhất thống chí, bản in đời Duy Tân (1907 - 1916), nhưng trong các câu phá thừa có khác mấy chữ(3) so với bài thơ viết trên đồ sứ ký kiểu.

Bốn câu đầu của bài thơ Ải Lĩnh xuân vân viết trên chiếc tô sứ ký kiểu đời Minh Mạng

Ngoài ra, bài Ải lĩnh xuân vân còn được viết trên hai chiếc tô sứ ký kiểu khác: một chiếc mang hiệu đề Bính Tuất niên chế, ký kiểu vào năm 1826 đời vua Minh Mạng (1820 - 1841); một chiếc mang hiệu đề Chính Đức niên chế, ký kiểu vào giữa thế kỷ XIX, nhưng chỉ viết bốn câu đầu của bài thơ và không có hình vẽ minh họa.

* Tam Thai thính triều

Bài thơ này cũng viết trên những chiếc tô sứ hiệu đề Thanh ngoạn ký kiểu đời Nguyễn Phúc Chu. Đây là bài thơ vịnh núi Tam Thai, còn có tên là Thủy Sơn, một trong năm hòn núi thuộc Ngũ Hành Sơn ở trấn Quảng Nam xưa, dân gian thường gọi là núi Non Nước. Sách Đại Nam nhất thống chí khi viết về núi này, có đề cập một ngôi chùa ở trên núi, gọi là Tam Thai tự, cảnh sắc rất tráng lệ. Chùa này hiện vẫn tồn tại ở lưng chừng núi và đã được trùng hưng, trở thành một thắng địa của Ngũ Hành Sơn, thu hút đông đảo Phật tử và du khách thập phương đến hành hương, ngoạn cảnh.

Phiên âm:

Tam Thai thính triều

Kỳ tú Tam Thai tủng bích phong

Trung hư ngoại hữu bạch vân phong

Tự lai Việt hải văn xuân lãng

Như tại Phiên Dương(4) thính thạch chung

Bất đoạn phong thanh bôn bạch mã

Hoàn nghi vũ sắc khởi thương long

Dục tầm thanh mộng hà tăng khán

Hưởng triệt nham tiền kỷ thụ tùng

Đạo nhân thư

Dịch thơ:         

Nghe sóng Tam Thai

Tam Thai kỳ ảo dựng non xanh

Động vắng ngàn mây trắng phủ quanh

Biển Việt dừng nghe lời sóng vỗ

Thành Phiên dõi ngóng ý chuông ngân

Liên hồi tiếng gió như vó trắng(5) 

Từng trận màu mưa tựa vây xanh(6)  

Ước tìm giấc mộng lành chưa thấy

Tùng biếc sườn trên mấy khóm xinh

Đạo nhân viết

Bài Tam Thai thính triều còn được viết trên những chiếc tô sứ mang hiệu đề Nhàn tâm lạc sự hay Nhật, là đồ sứ ký kiểu đời vua Minh Mạng.

Chiếc tô sứ ký kiểu vẽ cảnh núi Tam Thai,

minh họa bài thơ Tam Thai thính triều của chúa Nguyễn Phúc Chu

Bài thơ Tam Thai thính triều trên chiếc tô sứ do chúa Nguyễn Phúc Chu ký kiểu

Như vậy, cả hai bài thơ Ải lĩnh xuân vânTam Thai thính triều của chúa Nguyễn Phúc Chu đều được triều đình Minh Mạng cho viết lại trên những món đồ sứ ký kiểu của vương triều Nguyễn. Điều này cho thấy ngoài việc hâm mộ giá trị văn chương của các thi phẩm này, vua Minh Mạng cũng tán dương các danh thắng Hải Vân và Tam Thai nên mới noi dấu tổ tiên cho tái hiện các danh thắng này trên đồ sứ ký kiểu để thưởng ngoạn.

Trải qua gần ba thế kỷ, những món đồ sứ ký kiểu đề thơ của chúa Nguyễn Phúc ca tụng các danh lam thắng cảnh vùng Thuận - Quảng nói chung, trong đó có Ải lĩnh xuân vânTam Thai thính triều, đã trở thành cổ vật quý giá.

Trên hành trình du lịch từ Huế đến Hội An và ngược lại, nhiều du khách mong muốn dừng chân trên đỉnh Hải Vân mờ ảo trong mây hoặc ghé núi Tam Thai vãn cảnh, để nghe sóng triều ru vỗ và chiêm ngẫm những tứ thơ trác tuyệt của vị chúa tài hoa viết về danh thắng xứ Quảng từ 300 năm trước.

TS.Trần Đức Anh Sơn

Chú thích

(1) Đây là những bài thơ “thất ngôn bát cú” (8 câu, 7 chữ), nhưng khi viết trên đồ sứ ký kiểu, mỗi bài thơ được viết thành 10 dòng, gồm 1 dòng là nhan đề bài thơ, 8 dòng nội dung và 1 dòng lạc khoản ở cuối bài thơ ghi ba chữ Hán Đạo nhân thư và được viết theo hàng dọc, từ phải qua trái. Tuy nhiên, để tiện cho việc in ấn, ở đây, chúng tôi trình bày các câu thơ theo hàng ngang, từ trái qua phải và chỉ in phần phiên âm và dịch thơ vì hạn chế font chữ. Nguyên văn chữ Hán xin quý độc giả xem trên ảnh chụp những chiếc tô sứ này.

(2) Thục đạo thiên nghĩa là “đường ngoằn ngoèo ở đất Thục”. Đất Thục xưa ở phía tây Trung Hoa, nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Muốn vào đất Thục phải vượt qua ba cửa ải rất hiểm trở. Chúa Nguyễn Phúc Chu hình thế của Ải Lĩnh trên con đường đi về phương Nam của nước Việt ngoằn ngoèo hiểm trở như con đường đi vào đất Thục của Trung Hoa xưa.

(3) Trong sách Đại Nam nhất thống chí, bản in đời Duy Tân (1907 - 1916) bốn câu đầu của bài thơ được viết như sau (phiên âm): “Việt Nam hiểm ải thử sơn điên. Hình thế hỗn như Thục đạo thiên. Đãn kiến vân hoành tam tuấn lĩnh. Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên”. Bản dịch sách Đại Nam nhất thống chí do Nhà xuất bản Thuận Hóa xuất bản năm 1992 (Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính), dịch bốn câu này như sau: “Núi này ải hiểm đất Việt Nam. Hình thế hệt như đường vào Thục. Chỉ thấy mây giăng ba đèo dốc. Biết đâu người ở mấy từng mây”.

(4) Phiên Dương là tên một tỉnh thành ở Quảng Đông (Trung Quốc). Trong thành có một chiếc hồ lớn mà khi thủy triều lên nghe âm vọng như tiếng đàn đá.

(5) Chữ trong bài thơ ghi là bạch mã, nghĩa là con ngựa trắng.

(6) Chữ trong bài thơ ghi là thương long, nghĩa là con rồng xanh. Thươngmàu xanh thường chỉ sắc cỏ, nhưng cái gì có màu xanh thẫm cũng gọi là thương.

 

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Loại hình chân chạc trong đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên

Loại hình chân chạc trong đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên

  • 11/06/2019 08:28
  • 4286

Là loại hình di vật độc đáo xuất hiện từ văn hóa Phùng Nguyên và tồn tại qua các giai đoạn văn hóa tiếp sau (Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn). Đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về tên gọi cũng như chức năng của loại hình hiện vật này. Chúng được gọi bằng nhiều tên khác nhau như hòn kê, ông đầu rau, vật hình cốc, vật hình phễu, vật hình sừng bò, vật giữ lửa, chân giò, chân chạc, vật có liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng nguyên thủy... Đến nay tên gọi chạc gốm được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng hơn cả. Chạc gốm được tạo bằng tay, chất liệu gốm thô pha nhiều cát sạn sỏi nhỏ, đa số có văn thừng, một số ít trang trí văn khắc vạch. Chạc gốm chia thành hai phần: Phần cốc loe ở trên và phần chân ở dưới. Kích thước to nhỏ khác nhau.

Bài viết khác

Hai bài thơ của Chúa Nguyễn Phúc Chu vịnh danh thắng xứ Quảng xưa trên đồ xứ ký kiểu

Hai bài thơ của Chúa Nguyễn Phúc Chu vịnh danh thắng xứ Quảng xưa trên đồ xứ ký kiểu

  • 06/06/2018 13:58
  • 2466

Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Thái (1650 - 1691) và vương phi Tống Thị Lĩnh. Ông được đình thần tôn lên kế vị chúa Nguyễn Phúc Thái vào năm 1691, trở thành vị chúa Nguyễn thứ sáu trị vì Đàng Trong. Lên ngôi lúc mới 17 tuổi, ở ngôi 34 năm, Nguyễn Phúc Chu là một trong những vị chúa Nguyễn tạo dựng nhiều công nghiệp ở Đàng Trong.