Thứ Hai, 12/05/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

18/10/2017 00:00 2560
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Lam Kinh, quê hương vị vua đầu tiên của triều đại nhà hậu Lê, nơi phát tích của khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại, cách trung tâm của thành phố Thanh Hóa chừng hơn 50km về phía tây nam. Đây là khu vực mang đậm sắc thái không gian văn hóa Mường. Sau khi chiến thắng giặc Minh xâm lược, giành lại độc lập cho Đại Việt, các vua Lê đã cho đổi tên Thăng Long thành Đông Kinh, Lam Sơn thành Lam Kinh (Tây Kinh). Từ đây, Lam Kinh trở thành kinh đô thứ hai của nhà nước Đại Việt, với vị thế là vùng đất “căn bản”, nơi phát tích, khởi nguồn, vùng đất được suy tôn, có ý nghĩa tâm linh và nhân văn sâu sắc.

Lam Kinh, quê hương vị vua đầu tiên của triều đại nhà hậu Lê, nơi phát tích của khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại, cách trung tâm của thành phố Thanh Hóa chừng hơn 50km về phía tây nam. Đây là khu vực mang đậm sắc thái không gian văn hóa Mường. Sau khi chiến thắng giặc Minh xâm lược, giành lại độc lập cho Đại Việt, các vua Lê đã cho đổi tên Thăng Long thành Đông Kinh, Lam Sơn thành Lam Kinh (Tây Kinh). Từ đây, Lam Kinh trở thành kinh đô thứ hai của nhà nước Đại Việt, với vị thế là vùng đất “căn bản”, nơi phát tích, khởi nguồn, vùng đất được suy tôn, có ý nghĩa tâm linh và nhân văn sâu sắc.

Quần thể di tích rộng lớn gồm khu lăng mộ, đền, miếu thờ tự vua nhà Lê, cùng với đó là các cung điện và các công trình kiến trúc công năng để phục vụ trong các dịp hành lễ ở đây. Trong quá trình hành lễ ở Lam Kinh, tòa Chính Điện còn là nơi các vua nghỉ lại trong những dịp về bái yết sơn lăng, đồng thời cũng là nơi tổ chức tế lễ khi vua Lê Thái Tổ băng hà vào ngày 22 tháng tám âm lịch năm 1433. Sau tòa Chính Điện là chín tòa Thái Miếu, nơi thờ tự các vua và hoàng hậu. Quanh quần thể các cung và miếu là lăng mộ của hoàng tộc và nhiều công trình kiến trúc phụ cận khác liên quan đến vua, hoàng hậu, các khai quốc công thần nhà Lê. Đó là chưa kể tới những giá trị phi vật thể to lớn của khu Lam Kinh như kho tàng các truyền thuyết, giai thoại, câu chuyện kể về các vua Lê, về tướng lĩnh và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại.

Vào thế kỷ XIX, việc thờ cúng và tế lễ các vua và hoàng tộc nhà Lê được di dời xuống đền Lê ở làng Bố Vệ khi nhà Nguyễn cho xây dựng công trình tưởng niệm ở đây. Lam Kinh từ đó dường như bị bỏ hoang và rơi vào quên lãng.

Vào đầu thế kỷ XX, Học viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) đã tiến hành nhiều đợt nghiên cứu, khảo sát và khai quật ở Lam Kinh. Tuy nhiên, các đợt nghiên cứu mới chú trọng vào việc khảo sát hiện trạng, nhằm khôi phục công trình điện miếu, mà chưa khai quật và đánh giá một cách toàn diện hệ thống các giá trị của Lam Kinh thông qua địa tầng, di tích, di vật…Trong bối cảnh ấy, tài liệu gốm sứ cũng như về các loại di vật khác, chưa hề được đề cập tới trong việc xem xét, đánh giá khu di tích trong suốt quá trình tồn tại.

Trong khoảng 10 năm (1996-2006), Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) đã tiến hành các dự án khai quật khảo cổ học qui mô lớn ở Lam Kinh. Theo đó, đã từng bước khôi phục diện mạo vốn có của di tích, góp phần quan trọng cho công tác trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị. Về cơ bản có thể nhận thấy có ba lớp văn hóa/kiến trúc. Lớp thứ nhất là dấu tích cư trú thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, tiếp đến là hai lớp kiến trúc cung đình thế kỷ XV - XVI và thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Ngoài ra, tại các khu vực Tả Vu, Hữu Vu và tòa Thái Miếu I còn một lớp kiến trúc phản ánh đợt tu sửa vào thế kỷ XIX, dưới thời Nguyễn trước khi việc hành lễ được di rời hẳn về đền Bố Vệ, đã khẳng định, sinh hoạt tôn giáo của hoàng tộc nhà Lê ở Lam Kinh tồn tại đến thế kỷ XIX.

1.Sưu tập gốm quan, men trắng văn in ở Lam Kinh

Bên cạnh các di chỉ kiến trúc là một khối lượng lớn các loại hình vật liệu kiến trúc, đặc biệt là bộ sưu tập lớn các loại hình gốm sứ có niên đại tương ứng. Di vật gốm sứ này nguyên là các loại hình có nguồn gốc từ Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản được sử dụng trong quá trình hành lễ trong suốt quá trình tồn tại của hoàng tộc nhà Lê từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII tại Lam Kinh. Trong đó, đáng chú ý nhất là 65 đồ đựng và 3620 mảnh (ước tính khoảng 352 đồ đựng) men trắng, văn in nổi, ở giữa lòng đồ đựng thường in nổi hiệu đề Quan. Loại hình gốm sứ này tìm thấy chủ yếu ở lớp kiến trúc thế kỷ XV-XVI, tập trung ở khu vực Chính Điện, Thái Miếu II và Thái Miếu V.

Chất lượng của loại gốm sứ này rất tinh xảo và mỏng, một số mỏng như vỏ trứng (độ dày khoảng 0,05 đến 0,1cm). Hầu hết trong số đó là sứ sắc trắng xanh và thấu quang (chiếm 43,51% tổng số) và tập trung chủ yếu ở khu vực Thái Miếu (chiếm khoảng 45% tổng số). Hầu hết đồ đựng ở dạng bát, đĩa và chén nhỏ. Bát đĩa thường có kích thước không lớn lắm. Loại hình đĩa có kích thước khá đồng nhất với đường kính dao động từ 11,5 đến 14cm. Tuy nhiên, loại hình bát lại có ba kích cỡ khác nhau: loại lớn có đường kính miệng dao động từ 15 đến 16cm, loại nhỡ từ 13,5 đến 13,8cm và loại nhỏ khoảng 9,2 - 9,5cm. Ngoài ra, còn tìm thấy hai chiếc chén nhỏ có đường kính miệng là 5cm ở khu vực Thái Miếu. Bên cạnh loại sứ men trắng văn in này, còn tìm thấy gốm có trang trí cùng motif nhưng chất lượng kém hơn, xương dày hơn (chừng 0,3cm), sắc xám và không thấu quang.

Trong lòng hầu hết các đồ đựng ở dòng gốm sứ này đều có chữ 官(Quan) kết hợp với các đồ án trang trí. Hầu hết các đồ án trang trí đều được khung lại với hai đường gờ chỉ nổi song song in nổi xung quanh lòng. Hều hết miệng đồ đựng đều cạo men. Có bốn đồ án trang trí chủ yếu là họa tiết rồng mây, vân mây sóng nước, hoa mai và hoa cúc.

Họa tiết rồng mây được thể hiện theo motif hai con rồng nối đuôi nhau theo chiều kim đồng hồ, in nổi trong lòng đồ đựng. Họa tiết này chiếm đa số, trên 60% tổng số. Hầu hết là sứ, thấu quang và rất mỏng, chừng trên dưới 0,1cm, như vỏ trứng.

Mảnh bát gốm men trắng văn in (Lam Kinh, Thanh Hóa)

Gốm men trắng văn in, thấu quang (Lam Kinh, Thanh Hóa)

Mảnh bát gốm men trắng, văn in hình rồng và chữ quan (Lam Kinh, Thanh Hóa)

Đặc biệt, trên bề mặt của loại gốm, sứ có họa tiết này đôi khi còn được kết hợp với các ký tự men lam. Tất cả có tám hiện vật tìm được ký tự vẽ men lam: 篮 Lam; 敬(Kính); 僊 (Tiên); 慈 (Từ); 餅 (Bính); 伍 (Ngũ); 先 (Tiên). Đa số được vẽ men lam dưới men, chỉ có một trong số đó vẽ men lam dưới đế mộc.

Mảnh gốm men trắng xanh, văn in hình rồng và chữ quan viết lam (Lam Kinh, Thanh Hóa)

Họa tiết vân mây sóng nước chủ yếu tìm thấy ở Tả Vu, chỉ có bốn trong số đó tìm thấy quanh khu vực Thái Miếu. Mặc dù cùng dòng với loại sứ trắng nhưng đa số đồ đựng có họa tiết này là gốm, xương dày hơn. Hầu hết đều có chữ Quan in nổi trong lòng, một mảnh trong số đó có chữ先 (Tiên) men lam vẽ dưới men, hai trong tổng số có hoa mai in nổi trong lòng.

Bát gốm men trắng văn in mây, sóng và chữ quan (Sưu tập tư nhân tại Berlin, Đức)

Họa tiết hoa cúc có hai loại motif: Bốn trong sáu tiêu bản bát tìm thấy được trang trí hai hàng cánh cúc tỏa ra từ lòng bát lên tới miệng, ở đáy có hình chữ Quan in nổi; hai tiêu bản bát khác cũng trang trí tương tự nhưng chỉ có một hàng cánh hoa cúc.

Trang trí hình hoa mai kết hợp với dây leo tìm thấy ở một chiếc chén nhỏ tìm thấy ở Thái Miếu I. Trong lòng chén in nổi hình bông mai sáu cánh. Họa tiết trang trí này tìm thấy ở mảnh bát ở lớp kiến trúc thế kỷ XVI - XVII tại di tích thành Sakai ở Nhật Bản, ở di chỉ Mỹ Xá (Hải Dương), khá nhiều ở di tích Hoàng thành Thăng Long và ở di chỉ tàu đắm Cù Lao Chàm.

Bát gốm men trắng, văn in hoa mai (Lam Kinh, Thanh Hóa)

Ngoài ra, còn một chiếc bát gốm khắc hình hoa dây, hoàn toàn khác với loại gốm văn in nhưng vẫn có chữ Quan in nổi trong lòng. Do đó, có thể thấy rằng trong sưu tập gốm sứ ở Lam Kinh, chữ Quan xuất hiện như một chỉ dấu đặc trưng của đồ đựng. Ngoài việc xuất hiện với tần xuất lớn (hơn 46% trong tổng số gốm văn in), có một chữ Quan được khắc vào lòng một chiếc bát gốm chất lượng thấp, men lam nhòe. Ngoài ra, còn có một chiếc bát gốm men trắng vẽ lam niên đại thế kỷ XV có khắc chữ Quan dưới đế. Hiện tượng chữ Quan trên gốm sứ này còn tồn tại đến tận thế kỷ XVII trong truyền thống gốm sứ của triều Hậu Lê tại Lam Kinh. Một tiêu bản bát gốm men lam, chất lượng thấp, có niên đại thế kỷ XVII có vẽ chữ Quan bằng men lam trong lòng bát tìm thấy ở lớp mặt. Điều này cho thấy, dường như, bất chấp những khó khăn về tài chính cũng như thực quyền đã do các chúa Trịnh nắm giữ, nhà Hậu Lê vẫn cố gắng bảo lưu truyền thống gốm Quan của mình.

Mảnh bát gốm men trắng, văn in hình rồng và chữ quan khắc chìm (Lam Kinh, Thanh Hóa)

Mảnh bát gốm men trắng vẽ lam, thế kỷ XV (Lam Kinh, Thanh Hóa)

Mảnh bát gốm men trắng, vẽ lam, chữ quan viết lam, thế kỷ XVII (Lam Kinh, Thanh Hóa)

TS.Nguyễn Văn Đoàn

Bùi Kim Đĩnh

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Loại hình chân chạc trong đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên

Loại hình chân chạc trong đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên

  • 11/06/2019 08:28
  • 5048

Là loại hình di vật độc đáo xuất hiện từ văn hóa Phùng Nguyên và tồn tại qua các giai đoạn văn hóa tiếp sau (Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn). Đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về tên gọi cũng như chức năng của loại hình hiện vật này. Chúng được gọi bằng nhiều tên khác nhau như hòn kê, ông đầu rau, vật hình cốc, vật hình phễu, vật hình sừng bò, vật giữ lửa, chân giò, chân chạc, vật có liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng nguyên thủy... Đến nay tên gọi chạc gốm được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng hơn cả. Chạc gốm được tạo bằng tay, chất liệu gốm thô pha nhiều cát sạn sỏi nhỏ, đa số có văn thừng, một số ít trang trí văn khắc vạch. Chạc gốm chia thành hai phần: Phần cốc loe ở trên và phần chân ở dưới. Kích thước to nhỏ khác nhau.

Bài viết khác

Gốm Chu Đậu lừng danh hải ngoại (Phần 2 và hết)

Gốm Chu Đậu lừng danh hải ngoại (Phần 2 và hết)

  • 03/10/2017 00:00
  • 2331

Tháng 9-2004, tôi cùng với 2 nhà sưu tầm và nghiên cứu gốm sứ là Thomas Ulbrich (ở Đức) và Philippe Truong (ở Pháp) đi thăm Bảo tàng Nghệ thuật Dresden, tọa lạc trong cung điện Zwinger (Dresden, Đức). Nơi đây cũng có một số đồ gốm Việt Nam thời Lý - Trần - Lê, trong đó có 2 món đồ gốm Chu Đậu, xứng đáng gọi là bảo vật: chiếc đĩa lớn và chiếc ang (vò), đều có niên đại vào cuối thế kỷ XV.