Phần I: Khái quát về việc nghiên cứu, phân loại trống đồng ở quốc tế Chúng ta đều biết, trống đồng phân bổ rất rộng, có nhiều kiểu dáng khác nhau, tồn tại trong những thời gian sớm muộn khác nhau, do những người khác nhau sang tạo ra. Đây là một nhận định hết sức quan trọng được hầu hết các nhà nghiên cứu chấp nhận. Cho đến nay, trống đồng đã phát hiện được ở các nước Đông Nam Á như: Việt Nam, Lào, Campuchia, Indonexia, Thái Lan, Hoa Nam.
Hoa Hạ và Ấn Độ không phải là khu vực phân bố của trống đồng. Dù có mặt ở nhiều quốc gia, nhưng không phải tất cả các nước đó đều đúc trống đồng. Phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho chỉ có 2 trung tâm trống đồng là Bắc Việt Nam và Vân Nam Trung Quốc, là 2 khu vực có trình độ luyện kim sớm và cao trong thiên niên kỷ thứ I trước CN. Còn các khu vực khác phát triển muộn hơn hoặc do buôn bán trao đổi, ban tặng mà có.

Trống đồng Ngọc Lũ- hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn, hiện vật của BTLSQG.
Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã tiến hành phân trống đồng thành các loại hình khác nhau. Trong đó đáng chú ý là cách phân loại của nhà khảo cổ học người Áo F.Heger từ những năm 1902. Trong công trình “Những trống kim khí cổ ở Đông Nam Á”, ông phân trống đồng thành 4 loại chính và các loại hình trung gian. Trống loại I: có 3 phần tang, thân và chân phân biệt rõ ràngcân đối là loại trống có niên đại sớm nhất và trang trí đẹp nhất, phát hiện được nhiều nhất ở Bắc Việt Nam và Hoa Nam, mà tiêu biểu là loại trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ nước ta. Trống loại II muộn hơn, có 3 phần tang, thân và chân trống phân biệt không thật rõ rang trang trí các vành văn hoa chanh, văn đồng tiền, phát hiện được nhiều trong vùng đồng bào Mường sinh sống từ Phú Thọ đến Nghệ An và miền Nam Trung Quốc. Trống loại III có kiểu dáng hơi khác, mặt trống tràn rộng ra ngoài, tang, thân và chân gần hình ống, phân bố chủ yếu ở vùng Shan Miến Điện, cho đến những năm cuối TK XIX vẫn còn sản xuất. Trống loại IV gần giống kiểu dáng loại I nhưng thấp nhỏ, trang trí 12 con giáp, hoa văn tiền đồng và chữ Hán, phân bố chủ yếu ở vùng dân tộc Hoa Nam, trong những năm đầu TK XX người dân vùng này vẫn sử dụng trong các dịp lễ. Các nhà khảo cổ học người Pháp trước đây như V.Goloubev, Parmentier và nhiều nhà khảo cổ học trong nước đều sử dụng cách phân loại của F.Heger.

Trống đồng Hoàng Hạ - hiện vật BTLSQG.
Các nhà khảo cổ học Trung Quốc từ rất sớm cũng đã tiến hành nghiên cứu phân loại trống đồng. Trịnh Sinh Hứa với cuốn “Lược khảo về trống đồng” xuất bản năm 1937; Văn Hựu với cuốn “Sưu tập trống đồng cổ” xuất bản năm 1957 và trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu như Khâu Trung Luận, Tường Đình Du, Lỹ Vĩ Khanh, Hoàng Tăng Khánh… đã tiến hành phân trống đồng thành 7 hay 8 loại khác nhau như: Vạn Gia Bá, Thạch Trại Sơn, Lĩnh Thủy Xung, Tuấn Nghĩa, Ma Giang, Bắc Lưu, Linh Sơn, Tây Minh. Các loại hình này cũng nằm trong 4 loại chính và các loại trung gian của phân loại F.Heger, nhưng dung địa điểm phát hiện các trống đồng tiêu biểu làm đại diện. Cái khác nhau cơ bản là các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho loại hình Vạn Gia Bá là loại trống đồng trang trí giản đơn, không có các vành hoa văn đẹp thuộc giai đoạn sớm nhất, trong lúc các nhà nghiên cứu chúng ta thì cho loại đó thuộc loại muộn nhất trong trống loại I Heger . Trống thuộc loại I Heger có niên đại vào khoảng TK V trước CN đến TK I-III sau CN.

Mặt Trống đồng Ngọc Lũ.
Đáng chú ý ban đầu hầu hết các trống đồng đều phát hiện ngẫu nhiên trong long đất hoặc trong các đền chùa, nên không xác định được tính chất văn hóa cũng như tộc thuộc của chúng, như các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Miếu Môn… Sau này, khi phát hiện được nhiều di tích khảo cổ thời đại kim khí trên lưu vực sông Hồng, sông Mã và đặc biệt là văn hóa Đông Sơn đươc xác lập thì việc nghiên cứu trống đồng có nhiều thuận lợi. Với sự giống nhau một cách kỳ lạ giữa hoa văn trang trí trên trống đồng và trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn như thạp, thố, rìu giáo, tấm che ngực… và đặc biệt trong một số mộ tang như mộ thuyền Việt Khê, khu mộ Làng Cả, Làng Vạc hay trong một số di chỉ văn hóa Đông Sơn đã phát hiện được trống đồng to cũng như trống đồng minh khí thì trống đồng được xác nhận là một hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Do đó, hầu hết các nhà nghiên cứu trong nước đều xem tróng đồng loại I Heger phát hiện ở VN hầu hết là trống đồng Đông Sơn và đề nghị gọi chúng là trống đồng Đông Sơn.

Hoa văn trống đồng Ngọc Lũ.
Không phải tất cả trống đồng phát hiện được ở ta đều thuộc trống đồng Đông Sơn, nhưng muộn hơn và có quan hệ gần xa với trống đồng Đông Sơn. Ngoài trống đồng Đông Sơn, trên đất nước ta đã phát hiện được nhiều loại trống đồng như trống Heger loại II, còn gọi là trống Mường vì được phát hiện ở vùng người Mường cư trú và trong các mộ Mường. Theo GS Hoàng Xuân Chinh, người Mường không phải là người đúc trống đồng. Trống của họ là do triều đình phong kiến Việt Nam ban tặng cho các quan lang, quý tộc Mường. Cho đến nay, nước ta là khu vực có trống loại I Heger phân bổ đậm đặc nhất. Trống đồng Đông Sơn phát hiện được ngày một nhiều. Năm 1975, cả nước chỉ phát hiện được 65 chiếc. Năm 1985 đã có 144 chiếc; năm 1995 có 190 chiếc. Hàng năm đều có phát hiện; đây là số liệu thống kê chính thức được thông báo trong các Hội nghị khảo cổ học hàng năm. Một số địa phương cũng liên tục phát hiện trống đồng Đông Sơn như Thanh Hóa, Hà Tây(cũ), Đắc Lắc. Riêng Lào Cai 2 năm 1993,1994 phát hiện được 19 chiếc. Tỉnh Đắc Lắc chỉ trong vài ba năm gần đây, đã phát hiện được sáu, bảy chục chiếc trống đồng Đông Sơn. Ước tính cả nước phát hiện được trên 500 chiếc trống đồng Đông Sơn.Đó là chưa kể hàng vài trăm trống minh khí. Hiện nay nhiều nhà sưu tầm cổ vật trong nước cũng thích sưu tập lưu giữ trống đồng Đông Sơn. Có người lưu giữ vài chiếc, cũng có người lưu giữ hàng hai chục chiếc.

Hoa văn trang trí trống đồng Hoàng Hạ.
Chính việc phát hiện được nhiều trống đồng Đông Sơn đã làm thay đổi nhận định của một số nhà nghiên cứu trống đồng cổ Trung Quốc. GS Hoàng Xuân Chinh từng có nhiều lần đến thăm quan bảo tàng các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Quý Châu, Thượng Hải, Bảo tàng dân tộc Bắc Kinh…thấy rằng Trung Quốc cũng phát hiện được khá nhiều trống đồng; nhưng chủ yếu là trống loại II và loại IV theo phân loại của Heger. Trống đồng loại I không có nhiều và phát hiện được ở Vân Nam, Quảng Tây. Còn Quý Châu, Quảng Châu tuy cũng thuộc Hoa Nam nhưng cho đến nay cũng chỉ mới phát hiện được vài chiếc. Vài năm trước, khi GS Tưởng Đình Du Chủ tịch Hội nghiên cứu trống đồng Trung Quốc cổ Trung Quốc sang thăm nước ta, sau khi tham quan một số bảo tàng có trưng bày trống đồng như BTLS QG Việt Nam, Bảo tàng Hà Tây (cũ), Bảo tàng Thanh Hóa… Trong buổi tọa đàm trước lúc về nước, ông đã phát biểu là miền Bắc Việt Nam và Vân Nam- Trung Quốc là 2 trung tâm trống đồng thế giới. Quan điểm này hoàn toàn khác với quan điểm của GS cũng như giới nghiên cứu trống đồng Trung Quốc. Trước đó, tại hội thảo quốc tế về trống đồng ở Nam Ninh, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã đưa ra nhận định: “ Trống đồng khu vực Bắc bộ Việt Nam tương đối tập trung cũng chỉ là một quả dưa tương đối lớn kết trên vô số nhánh của sự phát triển của trống; gốc của nhánh dưa này vẫn ở tỉnh Vân Nam nước ta” (!) Nhưng trên thực tế, sự có mặt với số lượng lớn của trống đồng Đông Sơn nước ta đã đánh bại tư tưởng sô vanh bành trướng trong nhận định phiến diện, thiếu căn cứ khoa học trên của các nhà nghiên cứu Trung Quốc.
Kỳ sau: Phần II: Trống đồng Đông Sơn, hiện vật tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam thưở dựng nước
Minh Vượng (Sưu tầm & tổng hợp)
Nguồn:
- Tuyển tập Hội thảo khoa học Trống đồng với văn hóa Việt Nam – Hà Nội, 2008.
- Đồ đồng văn hóa Đông Sơn, Hoàng Xuân Chính- NXB VHTT TP HCM-2012.