Việc dùng một loại hình dụng cụ là dây buộc, dây đeo, dây căng… thường bị các nhà khảo cổ học quên lãng khi tìm về thời tiền sử, trong khi nó trở nên một loại vật dụng xuất hiện sớm và đặc biệt phổ biến, đặc biệt quan trọng trong các xã hội săn bắn hái lượm vốn còn quan sát được trong thế kỷ 18, 19, 20 ở các châu lục Á, Phi, Úc và Mỹ.
Chúng tôi đã từng đưa ra một ý kiến có vẻ lạ lẫm và cực đoan về lịch sử cây trồng, rằng trước khi con người trồng những cây lương thực như yam, taro (khoai từ, khoai sọ) hay lúa, mì, kê, mạch…thì cây có sợi cung cấp dây buộc được coi như những cây trồng đầu tiên bên cạnh nơi cư trú tiền sử, như việc tồn tại những bụi cây gai bên cạnh nhà người Mường gần đây.

Vải thời Văn hóa Đông Sơn
Ngoài việc dự đoán sự tồn tại của dây buộc có từ khoảng 20 ngàn năm thông qua các loại công cụ cuội có đẽo eo trong văn hóa Hòa Bình, chúng ta có những bằng chứng có thể nhìn thấy sớm nhất là hoa văn đập trên loại gốm có tên là gốm Đa Bút. Đây là loại hình gốm được coi như sớm nhất ở Việt Nam, lấy tên di tích cồn hến có tuổi 7 – 8 ngàn năm ở làng Đa Bút (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Loại gốm này từng xuất hiện trong những tầng cư trú văn hóa Hòa Bình ở hang Con Moong có tuổi 8.500 năm cách ngày nay. Vệt in trên gốm cho thấy chúng được tạo ra bởi những sợi dây không được se xoắn (twisted) buộc vào một thanh gỗ làm bàn đập tạo dáng gốm. Từ những dấu in đầu tiên này, phải đến 3000 năm sau, chúng ta mới có bằng chứng cho việc se xoắn sợi thông qua sử dụng một quả dọi đá (dọi xe sợi) hình tròn dẹt, có khoan lỗ ở giữa. Dường như kỹ thuật se sợi gắn trước hết với nhu cầu đan lưới đánh cá. Địa điểm khảo cổ học Gò Trũng (Hậu Lộc, Thanh Hóa) tồn tại cách ngày nay chừng 5.700 năm đã hội đủ những bằng chứng cho việc sản xuất và sử dụng một loại sợi se xoắn (twisted yarn) dùng cho đan lưới đánh cá. Tại đây, cuộc khai quật năm 1977 đã phát hiện một số mảnh gốm có dấu in hoa văn tạo bởi bàn đập buộc dây se xoắn. Cũng ở đây lần đầu phát hiện một dọi se sợi bằng đá và hàng trăm chì lưới bằng đá cùng hàng trăm cân xương cá lớn trong tầng văn hóa – bằng chứng cho việc sử dụng lưới đánh cá. Tuy nhiên, việc phát triển kỹ thuật se xoắn sợi đã mở ra bước ngoặt trong kỹ thuật dệt may. Bằng kỹ thuật đan lát, những sợi vỏ cây thô không se chỉ có thể tạo ra những sợi mảnh, chắc thì mới có thể nói đến nghề dệt vải. Vì vậy, nếu nói đến nghề dệt vải, chúng ta chỉ có bằng chứng gián tiếp từ sau 6.000 năm.
Những dấu vải đầu tiên được nhắc đến trên một vài mảnh gốm nào đó ở địa điểm Đồi Giàm, lớp văn hóa Phùng Nguyên, tuổi cách nay gần 4.000 năm. Cũng nhiều người nói đến một loại hoa văn in dấu vải trong văn hóa Phùng Nguyên, giai đoạn Gò Bông. Nhưng đến nay vẫn chưa có một khảo cứu khoa học nào về những hoa văn đó, rằng đó là văn in giống dấu vải hay là in bằng dấu vải thực. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, từ văn hóa Phùng Nguyên, dọi se sợi bằng gốm đã trở thành một loại hình di vật thường thấy. Dấu vải thực sự chỉ mới thấy phổ biến in trên đồ đồng thau Đông Sơn, 2.500 năm cách ngày nay. Và những người may mắn tận mắt nhìn được những miếng vải Đông Sơn thực thụ là những người đã khai quật và nghiên cứu mộ thuyền Việt Khê (Thủy Nguyên, Hải Phòng) năm 1958. Hơn 10 năm sau, nhóm khai quật chữa cháy 8 mộ thuyền Châu Can (Phú Xuyên, Hà Tây) là những người đầu tiên quan tâm thu thập và nghiên cứu vải trong các mộ này. Tuy nhiên, phải đến năm 2000, khi Trung tâm tiền sử Đông Nam Á thử nghiệm thành công việc khai quật và bảo quản vải trong mộ thuyền Châu Can 2000 – M1 thì những miếng vải thời Đông Sơn mới thực sự được nghiên cứu đầy đủ như một loại hình hiện vật khảo cổ học và bảo tàng học.


Vải được lọc ra từ những khối đất
118 mảnh vải lớn nhỏ đã được lọc ra từ 0,015 mét khối đất vớt vát từ mộ thuyền Châu Can 2000 – M1. Chúng thực sự là những phần khác nhau của trang phục chủ nhân nằm trong mộ - một thanh niên khoảng 18 – 20 tuổi, từ những tấm thân áo có diềm khâu, diềm tua đến những vật trang trí dệt bằng hai loại sợi hỗn hợp lanh (cannabis) và lụa (silk), đến cả những mảnh thắt lưng dệt bằng vải gai (boehmira) trên khuôn dệt bề ngang rộng không quá 5cm. Sợi dệt nên những miếng vải này đều được se theo kỹ thuật xoắn Z hoàn toàn khác so với kiểu se xoắn S phổ biến hiện nay. Những bằng chứng đầu tiên của kỹ thuật thêu (embroidery) cũng đã tìm thấy ở đây…

Khai quật mộ Châu Can 2000 – M1 (Phú Xuyên, Hà Tây)
Phát hiện quan trọng hơn nữa, đó là gần 1200 miếng vải lớn nhỏ đã được Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á phối hợp với Bảo tàng Hưng Yên khai quật và bảo quản tốt từ ngôi mộ thuyền Đông Sơn đào chữa cháy ở khu mộ táng Động Xá (Kim Động, Hưng Yên) năm 2002. Có tới 7 loại vải làm từ ba cỡ sợi của hai kiểu dệt khác nhau đã được nhận biết. Vật liệu tạo nên những miếng vải đó là gai (90%), lanh (8%) và lụa (2%). Hoàn toàn chưa thấy bằng chứng của bông (cotton). Ngoài những đặc trưng đã phát hiện ở vải Châu Can, tại Động Xá đã tìm thấy hơn 20 miếng vải có những băng sợi màu tạo nên bởi việc sử dụng những sợi lanh nhuộm chàm trong khi dệt trên nền vải chính là những sợi gai.

Khai quật mộ thuyền Động Xá (Kim Động, Hưng Yên) năm 2002
Hiện nay, nhờ kinh nghiệm khai quật và bảo quản vải cũng như các vật chất hữu cơ khảo cổ học khác như hạt quả, đồ gỗ, đồ sơn then bằng hệ thống những phòng thí nghiệm khá hiện đại. Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã mở ra khả năng nghiên cứu và trưng bày những loại hình di vật có nguồn gốc thực vật vốn rất khó khai quật và bảo quản. Một đề án hợp tác nghiên cứu vào cuối năm 2004 giữa Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á với Viện Khảo cổ học và Bảo tàng học Úc đã được ký kết nhằm khai quật, bảo quản và nghiên cứu hoàn chỉnh một vài mộ thuyền Đông Sơn với hy vọng sẽ khám phá những điều bí ẩn tiềm chứa sau lớp bùn lắng đọng trong các mộ thuyền về những bộ trang phục của tổ tiên chúng ta thời các vua Hùng dựng nước.
TS.Nguyễn Việt
Thúy Hà (giới thiệu)
Nguồn: 1. Cổ vật tinh hoa, số 8, tháng 7/2004.
2. Wetland Archaeology in Vietnam (Tham luận tại hội thảo khoa học)