Văn hoá Đông Sơn được phát hiện đầu tiên vào năm 1924 tại Thanh Hoá và thuật ngữ "văn hoá Đông Sơn" được chính thức nêu lên từ năm 1934, song những di vật văn hoá Đông Sơn đã được nhân dân Việt Nam biết đến từ lâu.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 các phát hiện và nghiên cứu về văn hoá này đều do người nước ngoài tiến hành. Qua các công trình nghiên cứu, các học giả đã bước đầu nêu được đặc trưng cơ bản của văn hoá Đông Sơn và đề xuất một số ý kiến về nguồn gốc, niên đại, cùng minh giải một số hoa văn trang trí trên đồ đồng.

Trống loại Heger I (Ngọc Lũ II). Đồng. Văn hóa Đông Sơn, 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay. Phát hiện tại làng Ngọc Lũ, Hà Nam
Công cuộc tìm hiểu, nghiên cứu văn hoá Đông Sơn của các nhà nghiên cứu Việt Nam thực sự bắt đầu sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Dưới ánh sáng của những phương pháp nghiên cứu mới, thông qua việc phúc tra lại những di tích và thẩm định lại những sưu tập hiện vật, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá Đông Sơn trong tiến trình lịch sử dân tộc. Nhận thức đó càng được củng cố qua các hội nghị nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương trong thập kỷ 60- 70. Văn hoá Đông Sơn đã được các nhà nghiên cứu thống nhất khẳng định là cơ sở vật chất cho sự ra đời của Nhà nước đầu tiên thời đại các vua Hùng.
Cho đến nay, phạm vi phân bố của nền văn hoá này được xác định trong một khu vực liền khoảnh, đa dạng địa hình, tập trung đậm đặc ở lưu vực ba con sông lớn: sông Hồng (các tỉnh châu thổ Bắc bộ), sông Mã (Thanh Hóa), sông Cả (Nghệ An).

Thạp. Đồng. Văn hóa Đông Sơn, 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay. Phát hiện năm 1961 tại Đào Thịnh, Yên Bái
Văn hoá Đông Sơn ra đời và phát triển rực rỡ dựa trên nền tảng của cả một quá trình hội tụ lâu dài từ những nền văn hoá trước đó. Nguồn gốc cơ bản để hình thành nên văn hoá Đông Sơn đó là các giai đoạn “Tiền Đông Sơn” với hai phổ hệ chính là “Phùng Nguyên - Đông Sơn” ở khu vực đồng bằng sông Hồng và phổ hệ “Cồn Chân Tiên- Đông Sơn” ở ngã ba sông Mã - sông Chu. Kỹ thuật luyện kim và đúc đồng đã đạt đến trình độ hoàn mỹ. Đồ đồng của văn hoá Đông Sơn không thể lẫn với bất cứ nền văn hoá khảo cổ nào khác trên thế giới.
Chiếc thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) đã cho thấy phần nào trình độ đúc đồng và nghệ thuật trang trí của người Đông Sơn. Đây là chiếc thạp lớn nhất và đẹp nhất trong số thạp có nắp được phát hiện, trên nắp có trang trí hoa văn giống trên mặt trống đồng và đặc biệt là những khối tượng trên nắp thạp phản ánh tư duy phồn thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa.

Thố. Đồng. Văn hóa Đông Sơn, 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay. Phát hiện tại Đông Sơn, Thanh Hóa
Qua quá trình nghiên cứu, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chia sưu tập hiện vật văn hoá Đông Sơn làm các loại chính sau:
- Vũ khí: rìu, giáo, lao, dao găm, búa chiến, mũi tên, hộ tâm phiến....
- Công cụ sản xuất: Rìu, lưỡi cày, cuốc, lưỡi dao gặt....
- Đồ dùng sinh hoạt: thạp, thố,bình, khay, đĩa, chậu, âu, muôi, thìa....
- Nhạc cụ: Chuông, trống, lục lạc
- Đồ trang sức: vòng, khuyên tai, hạt chuỗi, trâm, khoá thắt lưng....
Trống đồng là loại di vật điển hình nhất của văn hoá Đông Sơn. "Trống đồng Đông Sơn" có quy mô đồ sộ, hình dáng cân đối, thể hiện trình độ cao về kỹ năng và nghệ thuật. Đặc biệt là những hoa văn phong phú được khắc hoạ, không chỉ có ý nghĩa trang trí, mà còn là bức tranh miêu tả chân thực con người và sinh hoạt của thời dựng nước. Những trống minh khí chôn theo người chết như là hình ảnh thu nhỏ của cuộc sống thực tại với thế giới bên kia, điều đó giúp hiểu thêm về đời sống vật chất và tâm linh của người Đông Sơn

Dao găm. Đồng. Văn hóa Đông Sơn, 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay. Phát hiện tại Đông Sơn, Thanh Hóa
Với 80 năm phát hiện và nghiên cứu văn hoá Đông Sơn, các học giả đã đưa ra nhiều nhận định có giá trị. Việc khẳng định sự tồn tại của một nền văn hoá khảo cổ Đông Sơn đã mở ra nhiều cuộc tranh luận thật náo nhiệt. Văn hoá Đông Sơn đã được đặt trong bối cảnh chung của Đông Nam Á.
Thành tựu lớn nhất của các học giả nước ngoài là đưa di tích Đông Sơn vào nhận thức khoa học và những chiếc trống đồng loại I sưu tầm được (như trống đồng Ngọc Lũ) được phép gọi là trống Đông Sơn. Những đồ đồng thau hiện diện ở các bảo tàng trên thế giới như Bỉ, Pháp, Thụy Điển... cũng được biết đến qua cách định danh là đồ đồng thau Đông Sơn.

Qua. Đồng. Văn hóa Đông Sơn, 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay.
Thông qua các cuộc khai quật khảo cổ học, các nhà khoa học Việt Nam đã chứng minh được mối giao lưu giữa văn hoá Đông Sơn với các nền văn hoá khảo cổ khác:
Sự ảnh hưởng qua lại giữa văn hoá Đông Sơn với nền văn hoá Điền, với văn hoá Sa Huỳnh và với nền văn hoá cổ vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày càng được làm sáng rõ.
Trống Đông Sơn là biểu hiện của sự liên quan giữa văn hoá Đông Sơn với các nền văn hoá trong vùng Đông Nam á lục địa và hải đảo. Địa bàn phân bố trống Đông Sơn hầu khắp các nước trong khu vực Đông Nam á trừ Philippin.
Trên cơ sở tư liệu về khảo cổ học và tư liệu viết ngày càng phong phú, việc tìm hiểu văn hoá Đông Sơn cũng ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn. Ngoài các vấn đề có tính chất khảo cổ như đặc trưng văn hoá, niên đại, thời đại, các loại hình địa phương, nguồn gốc, mối quan hệ đa chiều của văn hoá Đông Sơn, nhiều công trình đã đề cập đến trình độ sản xuất, quan hệ xã hội và tổ chức xã hội đương thời.
Mặc dù các nhà Khảo cổ và Lịch sử đã đưa ra và giải quyết được nhiều vấn đề về văn hoá Đông Sơn. Song vẫn còn nhiều chỗ bỏ ngỏ hoặc chưa giải quyết sâu sắc, vì thế không ít vấn đề về văn hoá Đông Sơn vẫn đang thu hút sự quan tâm và lòng say mê của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
TS. Ngô Thế Phong
Nguyễn Thúy Hà
Nguồn: Tạp chí Cổ vật tinh hoa, số 3/2003