Trong đợt khai quật lần thứ 7 (2004) tại khu trung tâm di tích Lam Kinh, bên cạnh việc nghiên cứu, tìm hiểu nhằm xác định vị trí, qui mô, kích thước và các vấn đề có liên quan đến hai toà Tả Vu và Hữu Vu, các nhà khảo cổ học của Bảo tàng Lịch sử quốc gia (khi đó là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam) đã có một phát hiện khá lý thú.
Cùng với việc phục dựng lại những bình đồ kiến trúc chồng chéo phản ánh các đợt xây dựng, trùng tu, sửa chữa di tích trong suốt thời gian dài từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 thông qua bộ di vật là các loại hình vật liệu và trang trí kiến trúc minh chứng sinh động, các nhà khảo cổ đã thu thập được một sưu tập đồ gốm sứ, có nhiều nguồn gốc (Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản), nhiều thời kỳ, phong phú về loại hình và trang trí, trong đó đa phần đều là dòng gốm sứ cao cấp, chuyên dùng cho Hoàng tộc nhà Lê. Trong bộ sưu tập đó, đáng chú ý nhất là những mảnh vỡ của 2 chiếc bình loại to, men trắng hoa lam vẽ nhiều màu trên men, có dát vàng kim.
Đa số các mảnh tìm thấy là các mảnh thân (44 mảnh, trong đó 1 mảnh thân phần gần quai tạo mặt hổ phù), vỡ nhỏ, không có khả năng phục hồi, xương khá dày (từ 0,8 đến 1,2cm) màu xám trắng là sắc độ phổ biến và đặc trưng của gốm Việt Nam, nhưng phía trong lòng những mảnh gốm này phủ lớp men trắng mỏng, với bề mặt khá mịn chứng tỏ chúng được xử lý rất kỹ lưỡng.
Mặt ngoài phủ lớp men trắng làm nền, men nền mịn, đều, rạn, ngả xanh hoặc màu trắng sữa, men lam tươi và mờ, nhòe, còn nhận thấy nét vẽ trang trí hình hoa lá và mây, trong đó rõ nét nhất là băng cánh sen kép với một đường vẽ men lam, đường còn lại vẽ màu xanh lục ?, các màu vẽ trên men đều đã bị bay ít nhiều, song nhìn nghiêng vẫn thấy dấu vết trang trí là những áng mây nhỏ hay chấm tròn, cùng với nét vẽ lam tạo thành đồ án hoàn chỉnh. Trong các màu, màu xanh lục là khả dĩ hơn cả, sau đó là màu đỏ, song không còn nhận dạng rõ đồ án. Đáng chú ý, phía trong (trung tâm, có thể là nhụy hoa hay chính giữa mỗi cánh sen) của mỗi đồ án men lam và vẽ màu nêu trên là dấu vết của vàng kim dát trực tiếp lên bề mặt.
Căn cứ vào hình dáng, chất liệu, men và màu vẽ trên men, đặc biệt, nơi phát hiện là khu trung tâm điện miếu Lam Kinh - là vùng đất phát tích của nhà Lê, kinh đô thứ hai của nhà nước Đại Việt thời Lê, nên có thể xác định chiếc bình có niên đại khoảng thế kỷ 15 (Lê sơ). Đây là phần còn lại của chiếc bình gốm rất đặc biệt, rất hiếm thấy trong các di tích, mới chỉ thấy ở khu vực Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), nơi được coi là chốn đô hội phồn hoa, trung tâm chính trị, văn hoá dưới thời Lê sơ. Chúng ta đều biết, trong lịch sử nghiên cứu gốm sứ Việt Nam, đã xác định có hai dòng chính, là đồ gốm "quan dụng" và "dân dụng". Đồ gốm sứ "quan dụng" thường tìm thấy ở những nơi vốn là trung tâm, phủ đệ của các vương triều quân chủ Việt Nam, tập trung chủ yếu ở khu vực Hoàng thành Thăng Long, hoặc các vùng đất phát tích của vương triều đó, nơi được coi là “kinh đô thứ hai” bên cạnh "chính kinh" là Thăng Long (Hà Nội). Các sản phẩm gốm cao cấp thấy khá phổ biến ở khu vực di tích Hoàng thành Thăng Long và Lam Kinh (Thanh Hoá), trong đó phải kể tới loại gốm men trắng văn in, xương gốm mỏng như "vỏ trứng", trang trí tinh xảo hình rồng, phượng, mây nước, trong lòng in nổi chữ Quan hay bông hoa mai thể hiện rõ tính chất cung đình và đối tượng sử dụng, mà căn cứ vào đó, có ý kiến gọi đó là "sứ" của Việt Nam.
Tuy nhiên, các đồ gốm sứ cao cấp có dát vàng kim thì lại khá hiếm thấy. Việc tìm thấy mảnh vỡ của những chiếc bình gốm đã cho thấy sự phong phú, đa dạng của gốm cao cấp Việt Nam, phần nào phản ánh rõ khả năng sáng tạo, trình độ, kỹ thuật và mỹ thuật của các nghệ nhân Đại Việt thời Lê sơ cũng như cho thấy rõ hơn nhu cầu, thị hiếu của tầng lớp trên của xã hội đương thời.
Một số mảnh vỡ của hai chiếc bình men trắng hoa lam có dát vàng kim thời Lê sơ, thế kỷ 15:
TS. Nguyễn Văn Đoàn-PGĐ BTLSQG