Đồ sứ hoa lam là nhóm hiện vật có số lượng lớn với nhiều loại hình đồ gia dụng như: Lọ, nậm, bát, đĩa và chén. Những đồ sứ hoa lam này là những loại hình khá tiêu biểu của dòng gốm Arita, đặc biệt là khu vực lò gốm Ko Imari.
1. Đĩa sứ hoa lam.
+ Kiểu 1a: Đĩa có miệng loe, thành cong gãy, đế thấp, đáy lõm. Thành trong bổ ô hình cánh sen đầu vuông bên trong vẽ cành hoa lá cúc, hình bát bảo, bốn vạch ngang. Trong lòng bổ ô hình ngôi sao 8 cánh vẽ cành hoa lá cúc, hồi văn chữ S. Thành ngoài vẽ dây hoa lá. Dưới đáy viết chữ Chính. Đĩa cao 4 cm, đường kính miệng 21 cm. Đây là chiếc đĩa thuộc đời Giang Hộ khoảng 1660-1690.
Đĩa sứ hoa lam, 1660-1690.
+ Kiểu 1b: Đĩa có kiểu dáng tương tự kiểu 1a thành trong bổ ô hình cánh hoa sen đầu vuông bên trong vẽ cành hoa lá cúc, hình bát bảo và quẻ càn giữa 2 chữ vạn. Giữa lòng bổ ô hình ngôi sao 8 cánh, bên trong vẽ khóm hóa lá cúc xem kẽ chữ vạn. Đĩa cao 3 cm, đường kính miệng 21 cm. Dưới đáy có một chữ Hán theo lối Triện. Chiếc đĩa này thuộc đời Giang Hộ khoảng nửa sau thế kỷ 18. Theo lý lịch chiếc đĩa được sưu tầm ở tỉnh Hà Tĩnh.
Đĩa sứ hoa lam nửa sau thế kỷ 18.
+ Kiểu 1c: Đĩa có kiểu dáng tương tự như kiểu 1a. Thành trong bổ ô hình cánh sen đầu vuông, bên trong vẽ hoa lá, hình cái đỉnh. Giữa lòng vẽ chậu hoa . Đĩa cao 4,5 cm, đường kính miệng 28 cm. Chiếc đĩa này thuộc đời Giang Hộ khoảng 1680-1700.
+ Kiểu 2: Đĩa có miệng khum, gờ miệng uốn lượn, thành cong gãy, chân đế thấp, đáy lõm. Thành trong bổ ô hình cánh sen đầu vuông xen kẽ hình chữ nhật bên trong vẽ cành hoa lá và dải ba hình nhũ đinh. Giữa lòng vẽ đề tài sen vịt. Cao 4,2 cm, đường kính miệng 21 cm. Chiếc đĩa này thuộc đời Giang Hộ khoảng 1680-1700.
+ Kiểu 3: Đĩa này đều thuộc đời Minh Trị khoảng 1868-1912 và đều được thu trong thời kỳ CCRĐ 1955-1956.
Đĩa sứ hoa lam, 1868-1912.
• Kiểu 3a: Đĩa có miệng tròn, thành vát, chân đế thấp và rộng. Trang trí trong lòng thường bổ ô vẽ phong cảnh sơn thủy, cây lá, chim thú. Đĩa cao 3,8 cm, đường kính miệng 34,5 cm.
• Kiểu 3b: Kiểu dáng như kiểu 3a. Trong lòng bổ ô làm 3 khoảng thể hiện đề tài tam hữu tùng-trúc-mai. Cao 6,5 cm, đường kính miệng 54 cm.
+ Kiểu 4: Đĩa có kiểu dáng giống nhau: Miệng loe, thành vát, đế thấp và rộng. Các đĩa này đều thuộc đời Minh Trị khoảng 1868-1912.
• Kiểu 4a: Trong lòng vẽ phong cảnh, cây tùng và ba con hạc bay với ngọn núi Phú Sỹ. Xung quanh viền miệng vẽ băng bông hoa trong ô lục giác. Đĩa cao 5,7 cm, đường kính miệng 45,5 cm. Theo lý lịch chiếc đĩa này thu trong CCRĐ 1955-1956.
• Kiểu 4b: Trong lòng đĩa có trang trí tương tự như chiếc đĩa trên. Điểm khác biệt là ba hình chim hạc được bố cục theo hàng dọc. Viền miệng đĩa có gờ cắt khấc tô men màu nâu. Cao 4 cm, đường kính miệng 30,5 cm. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa này do Hải quan Nội Bài thu giữ và bàn giao cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam năm 1993.
• Kiểu 4c: Trong lòng đĩa bổ ô vẽ hoa lá mẫu đơn, phong cảnh sơn thủy, cá và cây cỏ. Cao 6 cm, đường kính miệng 45,8 cm. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa này do Sở văn hóa Hà Nội thu của Vũ Văn Thịnh và giao cho bảo tàng năm 1975.
+ Kiểu 5: Đĩa đều có miệng loe, thành cong, đế thấp, đáy lõm.
• Kiểu 5a: Gờ miệng cắt khấc. Trong lòng vẽ phong cảnh hồ nước, hai con uyên ương trong tư thế hoạt động khác nhau, sóng nước và ba cây cỏ uốn cong. Đĩa cao 4,5 cm, đường kính miệng 29,7 cm. Chiếc đĩa này thuộc đời Giang Hộ, đầu thế kỷ 19. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa này thu trong CCRĐ 1955-1956.
• Kiểu 5b: Trong lòng đĩa vẽ cây hoa lá mẫu đơn. Đĩa cao 6,2 cm, đường kính miệng 35 cm. Chiếc đĩa này cuối đời Giang Hộ, cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa này mua của Nguyễn Văn Yên ở Vĩnh Phúc, Hà Đông năm 1918.
• Kiểu 5c: Trong lòng đĩa vẽ chim đậu trên cành hoa hồng. Gờ miệng đĩa cắt khấc tô men nâu. Cao 5 cm, đường kính miệng 35,7 cm. Chiếc đĩa này thuộc đời Minh Trị 1868-1912. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa thu được trong CCRĐ 1955-1956.
2. Chén sứ hoa lam: Có hai kiểu đều do Hải quan Nội Bài thu giữ và giao cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, năm 1993.
+ Kiểu 1: Chén có gờ miệng cắt khấc, thành cong, chân đế thấp, thành ngoài bổ ô vẽ các dải xoắn ốc và các đường dích dắc dọc theo chiều cao. Giữa lòng vẽ bông hoa 6 cánh trong hai đường chỉ tròn. Gờ trong viền miệng có đường chỉ đậm men lam. Chén cao 5,6 cm, đường kính miệng 7,9 cm. Chiếc chén này thuộc cuối đời Giang Hộ, khoảng giữa thế kỷ 19.
+ Kiểu 2: Chén có miệng tròn, thành vát, chân đế cao. Xung quanh thành ngoài bổ ô hình chữ nhật, bên trong vẽ cành hoa lá xen kẽ ô chữ nhật vẽ hàng ba nhũ đinh tương tự như đĩa sứ hoa lam. Giữa lòng chén vẽ hình khóm cỏ. Viền trong gờ miệng vẽ đường chỉ đậm men lam. Chén cao 6,4 cm, đường kính miệng 8,2 cm. Chiếc chén sứ hoa lam này thuộc đời Giang Hộ khoảng 1680-1700.
Chén sứ hoa lam, thế kỷ 17-19.
Như vậy nhóm đồ sứ hoa lam hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia này đã phản ánh những loại hình khá tiêu biểu của dòng đồ sứ hoa lam Nhật Bản trong khoảng thế kỷ 17 – 20.
TS.Nguyễn Đình Chiến – PGĐ Bảo tàng Lịch sử quốc gia.