Nhà khảo cổ học Thụy Điển O.Janse là một tên tuổi quen thuộc với giới khảo cổ học Việt Nam. Là một nhà khoa học, ông chú ý đến nhiều vấn đề từ giai đoạn sơ sử và lịch sử của vùng Viễn Đông, nhưng mối quan tâm lớn nhất của ông là nghiên cứu về nền văn hóa Đông Sơn.
Trong quá trình nghiên cứu, thật may, ông phát hiện ra cây đèn đồng hình người ở Thanh Hóa vào năm 1935. Theo quan niệm của ông và các nhà khảo cổ học đương thời, cây đèn khai quật có niên đại thuộc hậu kỳ thời đại đồ đồng thau - bước sang thời đại sắt sớm hay giai đoạn Hậu Đông Sơn.
Trong các sưu tập tư nhân và Bảo tàng Nhà nước, đang lưu giữ trên dưới 20 cây đèn có niên đại Hậu Đông Sơn cho thấy giai đoạn này, đèn dường như là một loại hình ưa thích của cư dân thời bấy giờ.
Trước hết, đó là những cây đèn hình người, với nhiều tư thế, nhưng chủ yếu là quỳ. Tượng tròn giống như tượng cây đèn Lạch Trường, nhưng kích thước nhỏ hơn, với nhiều vẻ mặt, đầu tóc khác nhau. Cách cầm đèn thì rất đa dạng, khi thì để trước ngực, khi thì dựng bên sườn, khi đội lên đầu. Nét mặt khi đau khổ, lúc tươi vui như tượng tễu, nhưng dường như chất Đông Sơn còn khá đậm nét trên cả phương diện nhân chủng học và phong cách nghệ thuật. Một tượng người ngồi trên đế mỏng, đĩa đèn tròn đính trên giá, nằm ở bờ vai phải và dương vật thò ra đầy ấn tượng, gợi nhắc đến tín ngưỡng phồn thực Đông Sơn, nhưng khuôn mặt thì không thể trộn lẫn vì nó rất giống với tượng trên cán dao găm hay hình người trên trống đồng. Một chiếc đèn tượng người quỳ khác lưu giữ ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia có nhân dạng như mặt khỉ, hệt như trên những trống đồng Đông Sơn dáng thấp, phát hiện được ở một số tỉnh miền núi phía Bắc mà một số nhà nghiên cứu Việt Nam gọi đó là phong cách Điền.

Đèn tượng người quỳ
Cho đến nay, ở Việt Nam, có khoảng 4 cây đèn hình người trong đó có hai đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, kể cả cây đèn Lạch Trường nổi tiếng.
Sau đèn hình người là đèn hình thú. Hình thú đa dạng và phong phú hơn rất nhiều hình người. Chúng là những linh thú, là bò, hươu, voi… được diễn tả khá sinh động với nhiều kiểu dáng khác nhau. Đèn hình thú thường có tư thế quỳ và nằm, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, ngõng đèn được đặt trên lưng và dường như nó còn một cọc đính đĩa đèn, đúc rời, nhiều người sưu tập cho rằng đó là loại ống cắm bút - một trong những đồ dùng của văn phòng tứ bảo. Những đĩa đèn loại này có hình trụ hoặc hình chỏm cầu, ở giữa có một tim nhọn để đặt bấc, dưới đĩa là một cọc ngắn đầu nhọn, dùng để cắm vào ngõng đèn trên lưng thú. Đèn hươu và đèn bò thường có tư thế đứng hoặc đi, đĩa đèn cũng được để trên lưng, thành đứng và sâu. Đèn voi, hiện có một chiếc duy nhất ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia có bố cục phức tạp và rất hoành tráng. Voi đang đi, đầu cúi xuống, trên lưng là một cọc đèn với nhiều lớp, nhiều nhánh tỏa ra. Đầu mỗi nhánh là những đĩa đèn hình trụ, sâu lòng giữa có tim đặt bấc, đầu nhọn.

Đèn hình linh thú
Ngoài những đèn tượng linh thú, còn có những đèn tượng hươu, tượng bò, tượng voi đều thấy trên những họa tiết của trống đồng, trên đốc dao găm và trên những chiếc chuông vẫn quen gọi là chuông “voi”, có xuất xứ văn hóa Đông Sơn.
Đèn treo của thời Hậu Đông Sơn có số lượng nhiều và chủng loại phong phú. Chúng bao gồm những loại có quang treo là một thanh đồng hình gần tròn, được đính với đĩa đèn ở dưới, hình trụ, thành đứng, sâu lòng, có tim đèn nhọn ở giữa để đặt bấc. Đĩa đèn không chân hoặc ba chân quỳ, giống hệt các loại ấm ba chân thời đầu Công nguyên. Trên quang treo có phượng hoàng nằm ở đỉnh, tượng người quỳ thổi khèn, thổi sáo, quay hướng lên đỉnh của quang nơi phượng hoàng tọa lạc. Những khối tượng nhỏ này mang đậm chất tượng tròn của văn hóa Đông Sơn thường thấy trên cán dao găm, hay trên những hoa văn hình người, hình chim của trống đồng. Một loại quang treo khác bằng dây xích, được móc vào hai hoặc bốn khối tượng người quỳ, qua những háng chân, phân bố đều trên thành miệng của đĩa đèn. Đĩa đèn sâu, có khối hình khá giống với thố đồng, nhưng thiết kế đặc biệt hơn nhiều. Thành miệng loe rộng, ngoài hai hoặc bốn tượng người, còn nhiều băng hoa văn hình học. Kể cả người và hoa văn đều mang đậm chất Đông Sơn. Thân đĩa loe như một chiếc cốc, trên to, dưới nhỏ, giữa có sống nổi trang trí nhiều hoa văn hình học trên miệng. Đế đĩa đèn loe, nhỏ hơn miệng, giống như tỷ lệ của miệng và đế thố, nhưng phần dưới có đeo nhiều quả chuông nhỏ, giống như những quả chuông trên các vòng ống, bao tay Đông Sơn. Phần trong của đĩa đèn là một hình chỏm cầu nông lòng, có tim đèn nhọn ở giữa. Đó chính là phần để dầu và bấc. Vỏ bọc ngoài sâu, to và nhiều hoa văn tạo cho cây đèn có vẻ hoành tráng và mỹ thuật hơn.

Thố đồng - Một loại đèn treo
Đèn móc gồm một số cây đèn có phần cán là một thanh đồng khi tròn, khi dẹt, đầu là rồng hoặc rắn có tư thế vươn cao rồi quặp xuống như một chiếc móc. Một đầu kia đúc liền vào đĩa đèn hình trụ, hình chỏm cầu, không chân hoặc ba chân quỳ. Đó là loại đèn được móc trên tường. Cán đèn là đầu rồng, đầu rắn, nhưng tạo hình như cán xoong, cán chảo.
Đèn treo, đèn móc, với đĩa đèn ba chân quỳ và móc đèn là hình rồng khiến chúng ta liên tưởng tới những loại hình đồ đồng thời đầu Công nguyên được du nhập từ bên ngoài, nhưng nếu nhìn vào khối tượng người, tượng chim, tượng rắn và những hoa văn tết hình bông lúa ở những quang treo, không thể phủ nhận được yếu tố Đông Sơn.

Đèn đầu rồng
Bộ sưu tập đèn có niên đại tương đồng với đèn Lạch Trường là những sản phẩm của Đông Sơn, ít nhiều có ảnh hưởng bên ngoài, nhưng được pha trộn và được hòa tan từ người Đông Sơn. Điều này càng được minh chứng rõ ràng hơn, khi các học giả hàng đầu về đồ đồng và đồ gốm của Trung Quốc, tiếp xúc với một bộ hiện vật Hậu Đông Sơn ở Hà Nội, nhìn thấy bình con tiện, ấm ba chân, mô hình nhà…
Trong lịch sử cây đèn Việt Nam, hơn 20 thế kỷ, nếu không kể thời hiện đại, thì đèn thời Hậu Đông Sơn có lẽ là phong phú nhất về số lượng và loại hình. Nó dường như không có tiền đề ở phía trước và biểu hiện suy thoái ở giai đoạn sau. Nó là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử đèn Việt Nam. Hiện tượng ấy có thể liên quan tới quan niệm của người đương thời và quan niệm này có liên quan tới tín ngưỡng và tôn giáo. Trong các quan hệ tôn giáo thần bí Phương Đông hay trong các hoạt động tế lễ về ban đêm thì ánh sáng đóng vai trò cơ bản. Điều này có quan hệ gần gũi với những ý tưởng về vũ trụ bao la và được xem như là sự phản ánh cao quý của mặt trời, trăng và sao. Ánh sáng là biểu tượng của tâm hồn và chứa đựng nội dung thiêng liêng. Ánh sáng phát ra từ cây đèn như hào quang chói lọi. Ánh hào quang đó đưa lại cho mỗi con người sự tôn kính thần thánh, tín ngưỡng và sự bất tận.

Đèn voi
Những chiếc đèn có thể được xem là biểu hiện luân hồi của tạo hóa, chúng là vật dẫn đường chỉ lối cho người chết trong cuộc du ngoạn ở thế giới bên kia.
Những ý tưởng này khá trùng hợp với hiện tượng của khảo cổ học thường thấy ở đầu Công nguyên, khi những cây đèn chủ yếu tìm thấy trong các ngôi mộ và chủ nhân của những ngôi mộ ấy cùng với gia tộc của họ quan niệm, người chết sang thế giới bên kia, sống trong một vũ trụ khác, bao la hơn, cũng có trăng, có sao, có mặt trời và hào quang được phát ra từ những cây đèn. Nó đi liền với quan niệm “của đồng chia ba, của nhà chia đôi” để người xuống cõi âm vẫn có đồ dùng như khi sống. Quan niệm ấy tồn tại cho tới tận ngày nay, phổ biến ở các dân tộc Phương Đông, mà ở Việt Nam có phiên bản là việc đốt vàng mã.
Cây đèn liên quan tới thần linh và tín ngưỡng đối với Phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng và dường như nó hành trình với người Việt cho tới tận bây giờ. Tuy nhiên, mật độ đậm đặc của đèn thờ, bắt đầu từ thời Lê Sơ, rực rỡ vào thời Mạc và phổ biến vào thời Nguyễn, thường được thấy trong các di tích, các đình, đền, chùa, miếu, từ đường,… càng cho thấy Tín ngưỡng - Thần linh - Cây đèn như “tam bảo” trong đời sống cũng như trong cõi chết của người Đại Việt. Tuy nhiên, đó chỉ là ý sâu xa được giải mã từ cây đèn, nhưng trong quá trình vận động, không biết từ bao giờ nó trở thành đồ thông dụng, nhưng dù chúng là đồ dùng, vẫn ẩn chứa thần linh và tín ngưỡng khiến những người nghiên cứu cần phải đọc ra. Dù vậy, trong phả hệ đèn Việt Nam, đèn thờ vẫn có một cái gì đó khác biệt hơn, những cây đèn hình người nói riêng và phức hợp đèn ở thời Hậu Đông Sơn chứa đựng nhiều điều bí mật cần khám phá, giải mã./.
Lê Khiêm tổng hợp
Nguồn: Phạm Quốc Quân, "Về những cây đèn đồng Hậu Đông Sơn", Thông báo khoa học 2009, tr. 18 - 25.