Óc Eo đã từng phồn thịnh trong 4 thế kỷ, từ đầu thế kỷ II đến thế kỷ V sau Công nguyên.
Những di vật khai quật được ở Óc Eo gồm có các di vật bản địa như một số đồ đồng, đồ thiếc, nữ trang bằng vàng, vàng nạm ngọc thạch, đồ thủy tinh, đá chạm (ngọc thạch, mã não); các loại di vật từ Ấn Độ như đầu tượng Phật bằng đồng, nhẫn vàng chạm hình bò thần (Nandin), ngọc chạm hình phụ nữ tế thần Lửa; các loại di vật từ La Mã sang như huy chương vàng chạm hình vua Antonius Pius (152 sau Công nguyên), đồng tiền vàng chạm hình Marcus Aurelius, viên ngọc hình mã não chạm hình chuột kéo xe có gà ngồi trên… ; loại di vật từ Trung Quốc xuống như mảnh gương đồng thời Hậu Hán (25-220), tượng Phật bằng đồng thời Ngụy (386-557). Qua bộ di vật này chứng tỏ Óc Eo thời đó là một trung tâm giao thương lớn.
Di Lặc Trung Hoa triều Bắc Ngụy (Thế kỷ thứ 5). Tượng bằng đồng mạ vàng
Óc Eo là nơi sản xuất vàng bạc, đồng kẽm, trầm hương, ngà voi, chim két năm sắc lông v.v…. Những sản phẩm mà Óc Eo xuất đi các nơi khác thường là vàng, bạc, lụa, vải… Mặt khác còn có thể thấy những sản phẩm của Phù Nam đưa ra nước ngoài dưới hình thức lễ cống như: mía, giấy bảo hương lý, đồ thủy tinh, đồ vàng chạm trổ, tượng bằng gỗ bạch đàn, vật phẩm bằng đồi mồi, ngọc chạm, các loại dầu thơm…
Nhẫn và trang sức vàng tìm được tại di chỉ Gò Xoài (Đức Hòa, Long An)
Nhiều loại sản phẩm giống với Óc Eo cũng được tìm thấy ở nhiều nơi trong khu vực Đông Nam Á như phù điêu đất nung ở Chansen (Thái Lan); hạt ngọc chuỗi ở Kuala Selinging (Malaixia); ở cánh đồng Chum (Lào), Sa Huỳnh và Đông Sơn; xa hơn nữa đến Tây Bắc Ấn Độ, Ba Tư và Địa Trung Hải.
Ngay từ buổi đầu của Phù Nam đã có các thương nhân đến buôn bán ở ngoại vi Phù Nam (Óc Eo). Đó là những người gốc Mã Lai. Vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, một khu vực buôn bán đầu tiên được mở ra ở Đông Nam Á là vùng Bắc bán đảo Mã Lai và bờ biển miền Nam Việt Nam. Các thủy thủ Mã Lai - Đa Đảo là những người trung gian bản địa khởi xuất mối tiếp xúc với bên ngoài: những chuyến hành trình được tiến hành sang phía tây đến bờ biển Châu Phi; sang phía đông đến tận Trung Quốc.
Vào thế kỷ II sau Công nguyên, khu vực buôn bán này trở nên quan trọng vì đường bộ giữa Đông và Tây bị cắt đứt. Đường thủy đi từ bờ biển Đông Nam Trung Quốc sang vịnh Bengan và ngược lại, phải chuyển qua eo Kra. Như vậy, Óc Eo trở thành một bến chờ trên tuyến đường này. Các thuyền buôn cập bến Óc Eo để lấy nước ngọt, lương thực và trú chân chờ hàng từ eo Kra chuyển tới, cũng như chờ dòng biển, luồng gió thuận. Từ đó, Óc Eo trở thành một trung tâm trao đổi buôn bán.
Trong thế kỷ II và III, khu vực buôn bán thứ hai của người Mã Lai lại nổi lên ở vùng Java. Sản phẩm ở vùng biển Java chủ yếu là đồ gia vị, đinh hương, gỗ đàn hương thu hoạch ở quần đảo Sunda Bé, Malacca, bờ biển Đông Bornéo, Java và bờ biển Nam Sumatra. Miền Nam Sumatra trở thành nơi hội tụ các luồng thương mại trong biển Java. Từ đó, người Mã Lai lại chuyển hàng lên Óc Eo để gia nhập vào luồng thương mại quốc tế. Họ còn khai thác thêm lâm sản trên quần đảo Inđônêxia để đưa vào mạng lưới thương mại.
Bản đồ mạng lưới hải thương khu vực Đông Nam Á
Như vậy, từ những thế kỷ đầu Công nguyên, người Mã Lai đã đóng vai trò quan trọng trong mạng lưới thương mại ở vùng biển Đông Nam Á, trong đó Óc Eo là một cảng trung tâm.
Sự thịnh vượng của Óc Eo chủ yếu dựa trên buôn bán. Óc Eo là một điểm chốt quan trọng trong việc tìm hiểu lịch sử, văn hóa khu vực Đông Nam Á, nhất là trong việc hình thành nhà nước đầu tiên trong khu vực.
Lê Khiêm tổng hợp
Nguồn: Cao Xuân Phổ, "Óc Eo trong sự phát triển thương mại ở Đông Nam Á", Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, 1984, Sở Văn hóa và Thông tin An Giang, Long Xuyên, tr. 232-238.