Văn hóa Óc Eo - một nền văn hóa cổ ở Nam Bộ hình thành và phát triển từ thế kỷ I đến thế kỷ VII. Sau gần 70 năm phát hiện và nghiên cứu, văn hóa Óc Eo ngày càng hiện lên rõ nét trong cả không gian phân bố và thời gian hình thành, phát triển và được bảo lưu như một truyền thống ở nơi đây.
Dấu tích cư trú của cư dân cổ được tìm thấy khắp lưu vực các con sông Cửu Long, Vàm Cỏ, Đồng Nai. Di vật phổ biến trong các di tích khảo cổ học văn hóa Óc Eo từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn là đồ gốm.
Tuy không có vẻ rực rỡ tinh xảo như các loại đồ trang sức, không có vẻ hoành tráng mà diễm lệ như những pho tượng thờ bằng đá, đồ gốm trong văn hóa Óc Eo mang một vẻ đẹp giản dị nhưng không kém phần độc đáo vì đã thể hiện được đặc trưng văn hóa tộc người và phản ánh nguồn gốc bản địa của nền văn hóa này.
Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo được chia làm 3 loại hình chính: Vật liệu xây dựng - kiến trúc (gạch, ngói, điêu khắc, phù điêu trang trí…); công cụ sản xuất (bàn xoa, chì lưới, dọi se sợi, nồi nấu kim loại, chạc gốm, bếp gốm (cà ràng), chén nhỏ…); đồ gia dụng (bếp lò, đèn, hũ, bình, nồi lớn nhỏ), đồ thờ cúng (bình Kendi, ly chân cao…). Trong đó, loại hình công cụ - dụng cụ sản xuất và đồ gốm gia dụng - thờ cúng phản ánh nhiều mặt đời sống của cư dân ở những tiểu vùng địa hình khác nhau.
Đồ gốm văn hóa Óc Eo
Về chất liệu, gốm Óc Eo hầu hết là đất nung xương gốm khá mịn, gốm màu đỏ hay nâu hồng hoặc xám đen, trừ các chén nhỏ và nồi nấu kim loại cứng chắc như sành do xương gốm pha nhiều sạn sỏi nên có màu xám.
Phổ biến nhất trong loại hình công cụ - dụng cụ sản xuất là các bàn xoa. Đây là dụng cụ làm đồ gốm nhỏ như bình, hũ, ấm có vòi, làm bằng chất liệu sét lọc kỹ khá mịn, màu trắng ngà hay hồng nhạt, tay cầm hình trụ hơi thon ở giữa tạo núm cầm ở đầu, một số tiêu bản có những đường gờ ren để cầm cho chắc chắn. Mặt xoa hình tròn cong lồi có hoa văn khắc chìm khá sắc nét kiểu chân chim, dấu nhân hay những đường tròn đồng tâm cách đều nhau từ 1mm đến 2-3mm, cũng có tiêu bản mặt để trơn láng. Một lỗ nhỏ 0,5 cm xuyên dọc chính giữa tay cầm đến tâm mặt xoa. Công cụ này được sử dụng để “xoa” làm nhẵn láng bề mặt đồ gốm vì những đường “hoa văn” rất nhỏ có tác dụng khi xoa sẽ làm bề mặt đồ gốm nhẵn đều, mặt cong lồi và lỗ xuyên tâm làm giảm ma sát của mặt tiếp xúc, động tác nhẹ nhàng và nhanh hơn. Những tiêu bản mặt xoa không có hoa văn có chức năng làm nhẵn bóng áo gốm, tăng thêm vẻ đẹp cho sản phẩm. Kích thước phổ biến là chiều cao và đường kính mặt xoa xấp xỉ nhau: 6-8cm. Cá biệt có tiêu bản lớn khoảng 10-12cm nhưng chất liệu cứng chắc gần như sành, màu đỏ nâu hoặc xám đen, không có hoa văn, đó là các bàn dập làm các loại đồ gốm lớn như lu, khạp, nồi lớn… cho xương gốm chắc và mỏng đều. Loại dụng cụ này đến nay vẫn còn được sử dụng tại các lò sản xuất lu gốm ở Tân Vạn (Biên Hòa, Đồng Nai) và nhiều nơi khác.
Bàn xoa gốm
Bếp lò (cà ràng): Đây là di vật tiêu biểu được tìm thấy nhiều trong các di tích. Tuy chỉ còn các mảnh vỡ nhưng có thể nhận dạng di vật này qua sự so sánh với loại bếp lò bằng gốm hiện nay vẫn phổ biến ở Nam Bộ. Di vật này có một số kiểu dáng như:
Ở giai đoạn sớm: Bếp lò hình chảo đáy rộng và khá bằng, trong lòng có gắn 3 giá kê (hình trụ, đầu hơi nhọn như sừng bò).
Ở giai đoạn muộn: Bếp lò hình khay thắt ở giữa giống số 8. Bếp này có chân đế và thành lò cao, từ thành lò nhô ra 3 giá kê. Phần ngoài có thể để than tro nướng thức ăn.
Điều đặc biệt là loại bếp lò gốm này đã được tìm thấy rất nhiều trong các di tích thuộc văn hóa Đồng Nai thời tiền sử (niên đại từ 3000 - 2000 năm cách ngày nay) vừa là vật dụng tìm thấy tại nơi cư trú, vừa là đồ tùy táng trong các ngôi mộ. Như vậy loại bếp lò gốm (cà ràng) này đã tồn tại và phổ biến trong đời sống cư dân vùng sông nước, cư trú trên nhà sàn hay ghe xuồng, suốt từ thời xa xưa; là loại vật dụng quen thuộc và cần thiết của cư dân vùng sông nước không chỉ ở đồng bằng sông Cửu Long mà còn cả ở vùng sông Vàm Cỏ, Đồng Nai.
Bếp gốm (cà ràng) minh khí trong di tích KCH Tiền sử Nam Bộ
Đồ gốm gia dụng đều làm từ đất sét khá thuần lại được lọc lỹ, chế tạo bằng bàn xoay kết hợp dải cuộn, xương gốm rất mịn và chắc. Gốm thường có màu trắng ngà, hồng nhạt hay nâu đỏ, dày 0,5 - 1 cm. Loại hình phổ biến là các kiểu hũ, bình, nắp lõm, cốc chân cao… đặc biệt là loại bình ấm có vòi và nắp hình tháp được coi là đặc trưng của đồ gốm trong văn hóa Óc Eo.
Bình ấm có vòi: Thường có thân hình cầu, đáy bằng hoặc hơi lõm nhẹ, cổ bình cao, đường kính miệng nhỏ, mép miệng loe cong ra ngoài. Nhiều chiếc bình có trang trí hoa văn khắc vạch tam giác kiểu zíc zac, sóng nước…
Bình gốm Óc Eo có vòi
Nắp gốm hình tháp: Có các kiểu chóp cụt hay chóp nhọn, nút cầm trang trí nhiều kiểu, mặt trên nắp có các đường gờ hoặc trổ lỗ hình học, thân nắp hình trụ rỗng.
Đồ dùng nghi lễ tôn giáo: Bình kiểu Kendi là loại bình có vòi thân hình cầu, phình tròn ở giữa, thu nhỏ ở cổ và đáy bình. Miệng bình loe cong. Kích thước của bình khá lớn, nhiều chiếc có hoa văn khắc vạch tam giác hay sóng nước ở thân. Có chiếc tô màu đỏ (thổ hoàng) hay tô màu đen chì rất đẹp. Những bình kiểu Kendi thường được tìm thấy trong các phế tích đền tháp, hầu hết bị gãy vòi, dấu vết cho thấy sự “cố ý” đập gãy rời vòi khỏi thân bình. Đây là di vật dùng trong các nghi lễ tôn giáo Bàlamôn, những chiếc vòi bình mang bóng dáng ngẫu tượng Linga - tượng trưng cho thần Siva.
Bình kiểu Kendy
Những loại đồ gốm tiêu biểu trên đây của văn hóa Óc Eo chỉ là một phần nhỏ trong kho tàng đồ gốm phong phú và đa dạng của nền văn hóa này. Di vật gốm cổ cho ta nhận biết về đời sống của chủ nhân văn hóa Óc Eo, những yếu tố văn hóa bản địa Đồng Nai - Cửu Long và những yếu tố văn hóa ngoại sinh từ vùng biển và hải đảo mang đến.
Lê Khiêm tổng hợp
Nguồn: Nguyễn Thị Hậu, Đồ gốm Óc Eo. CVTH 2004, số 9; tr. 26-27.