1.Lời mở:
Vật liệu cấu thành bộ mái trong các công trình kiến trúc chính là những viên ngói cong (ngói âm - dương), ngói phẳng (ngói mũi sen, ngói mũi tròn, ngói mũi nhọn) và những phù điêu trang trí.

Ngói ống và ngói lòng máng hay còn được gọi là ngói âm dương xuất hiện ở Việt Nam khá sớm, các bằng chứng khảo cổ học tìm thấy ở Cổ Loa cho thấy các loại hình ngói này có thể đã xuất hiện vào những thế kỷ 1-2 trước Công nguyên. Ở Hoàng thành Thăng Long, bằng chứng sớm nhất về loại hình ngói này được biết cho đến nay là các loại ngói ống có niên đại vào giai đoạn thuộc Đường hay còn gọi là thời Đại La hoặc tiền Thăng Long thế kỷ thứ 7-9.
2.Các loại hình ngói trên bộ mái các công trình kiến trúc ở Hoàng thành Thăng Long:
Trên cơ sở hình dáng, ngói tìm được ở đây chia thành 2 nhóm ngói cong và ngói phẳng. Ở những vị trí khác nhau trên bộ mái kiến trúc có những loại ngói phù hợp như ngói lợp phần thân mái, lợp phần diềm mái...

2.1. Ngói cong: Gồm hai loại ngói ống và ngói lòng máng.

2.1.1. Ngói ống dáng thuôn dài, tròn đều, đường kính phần thân và phần đuôi tương đương nhau, mặt cắt ngang hình nửa ống tròn. Thân được tạo bằng kỹ thuật dải cuộn kết hợp bàn xoay, thân dày đều, mặt trên làm nhẵn hoặc có dấu thừng, mặt dưới có dấu vải rất rõ. Hai bên rìa cạnh thẳng và cắt bẻ. Phần đuôi và thân được tạo liền khối. Đuôi được tạo bằng cách cắt bớt độ dày thân. Độ dày của đuôi thường bằng ½ độ dày thân, có 3 kiểu tạo đuôi khác nhau:
- Đuôi được tạo bằng cách uốn cúp xuống và cắt bớt độ dày thân. Độ dài đuôi ngắn, khoảng 1cm.
- Đuôi được tạo bằng cách uốn cúp xuống và cắt bớt độ dày thân. Độ dài đuôi khoảng 1,5-2cm.
- Đuôi được tạo bằng cách cắt bớt độ dày thân, đuôi thẳng, vuông góc với phần vai, mặt cắt dọc viên ngói hơi uốn cong ở phần tiếp giáp giữa thân và đuôi.
Viên ngói có kích cỡ trung bình dài thân 27-30cm, đường kính thân 15-17cm, đường kính đuôi 8-12cm, dài đuôi 2-3cm, dày thân 1,5-3cm. Một số viên ngói có kích thước nhỏ hơn, dài thân 25-27cm, đường kính thân 12-14cm, đường kính đuôi 10-12cm, dài đuôi 2-3cm, dày thân 1-1,5cm.
Ngói ống lợp thân mái dáng thuôn dài, tròn đều, mặt cắt ngang hình nửa ống tròn. Thân được tạo bằng kỹ thuật dải cuộn kết hợp bàn xoay, thân dày đều, mặt trên làm nhẵn hoặc có dấu thừng, mặt dưới có dấu vải rất rõ. Hai bên rìa cạnh thẳng và cắt bẻ. Phần đuôi và thân được tạo liền khối. Đuôi được tạo bằng cách cắt bớt độ dày thân. Độ dày của đuôi thường bằng ½ độ dày thân.
Có một số lượng nhỏ ngói ống có men lục thời Lý. Men phủ toàn bộ mặt trên của thân ngói và mép ngoài đầu ngói, sắc men đậm, độ thiêu kết giữa men và xương thấp. Một số viên ngói ở mặt trên của đuôi có in hoặc viết chữ Hán.
* Ngói ống không men màu đỏ: Ngói dáng thon dài. Đường kính thân phần đuôi nhỏ hơn đường kính thân phần đầu. Mặt trên nhẵn, mặt dưới phẳng từ đầu đến đuôi. Rìa cạnh cắt vuông, phẳng. Thân ngói được tạo bằng kỹ thuật đắp tảng đất trên khuôn. Đuôi ngói thẳng và liền với thân ngói, dài trung bình 5-7cm, độ dày đuôi nhỏ hơn hoặc bằng 1/2 độ dày thân. Chất liệu đất nung màu đỏ tươi, xương rất mịn, nhiều vân vàng. Kích thước trung bình đường kính thân 16-18cm, đường kính đuôi 13-15cm, dày 1,5-2,5cm.

* Ngói ống men xanh lục: Về hình dáng hoàn toàn giống ngói ống không men màu đỏ. Điểm khác biệt là mặt trên thân ngói phủ men xanh lục. Một số viên ngói ở mặt trên của đuôi có in hoặc viết chữ Hán, gồm các chữ: Đại, Nhân, Kỷ. Chất liệu đất sét trắng có pha cao lanh và các hạt đá nhỏ li ti. Xương ngói màu trắng hoặc trắng hồng. Kỹ thuật chế tạo thân được tạo bằng kỹ thuật đắp tảng đất trên khuôn. Đầu thon nhỏ của ngói được cắt/gọt bớt độ dày làm phần này thót lại thành đuôi ngói. Men phủ toàn bộ mặt trên của thân ngói và mép ngoài đầu ngói, sắc men đậm, độ thiêu kết giữa men và xương thấp. Mặt trên của đuôi ngói không phủ men. Kích thước trung bình: Đường kính thân 16-18cm, đường kính đuôi 14-16cm, dày 1,5-2,5cm.
Ngói ống lợp diềm mái là những viên ngói lợp ở vị trí đầu tiên trong hàng, gồm hai phần: phần đầu có trang trí hoa văn và phần thân hình ống nửa hình tròn, đầu ngói thường được gắn vuông góc với thân ngói. Phần đầu ngói và thân ngói được tạo bằng kỹ thuật ghép nối. Trong lòng đầu ngói trang trí hoa văn với các chủ đề chính là hoa sen, hoa mẫu đơn, hình rồng…

Đầu ngói ống được gắn vuông góc với thân ngói, trong lòng của đầu ngói thường trang trí hoa văn, hai họa tiết phổ biến là hoa sen và hình rồng, sự đa dạng trong việc thể hiện các họa tiết hoa sen làm cho đề tài trang trí trở lên phong phú và hết sức đa dạng.

2.1.2. Ngói âm (ngói lòng máng): Hình chữ nhật hoặc hình thang, dáng thon uốn cong lòng máng, lòng ngói sâu trung bình 6-8cm, thân dày đều, đường kính phần đầu nhỏ hơn đường kính phần đuôi. Ngói được tạo bằng kỹ thuật dải cuộn hoặc đắp tảng đất trên khuôn, khuôn úp. Mặt trên phẳng, được cắt gọt và xoa nhẵn hoặc chải kín bề mặt. Mặt dưới được cắt gọt và xoa nhẵn, mặt trên nhẵn hoặc có dấu văn thừng, rìa cạnh cắt bẻ hoặc cắt vuông.
Một số lượng không lớn ngói lòng máng có phủ men trắng, mặt trên làm nhẵn trước khi tráng men hoặc có dấu chải, men phủ lên dấu chải. Rìa cạnh đầu cắt phẳng hình vuông, lượn tròn hay cắt vát. Trong lòng có tráng men, phần đuôi ngói không men. Một số mảnh ngói có khắc chữ Hán, thường là các chữ “Kỷ”, “tỵ”, “nhất”, “nhị”, “tam”. Chất liệu đất sét trắng, xương ngói mịn hoặc có pha cát hạt nhỏ. Kích thước trung bình: Dài: 21-34cm, đường kính đầu 24-41cm, đường kính đuôi 36-41cm, dày thân 1,7-2,5cm.
* Ngói lòng máng không men, màu đỏ: Thân ngói tạo liền khối, hình chữ nhật hoặc hình thang, dáng thon uốn cong lòng máng, lòng ngói sâu trung bình 6-8cm, thân dày đều, đường kính phần đầu nhỏ hơn đường kính phần đuôi. Ngói được tạo bằng kỹ thuật đắp tảng đất trên khuôn, khuôn úp. Mặt trên phẳng, được cắt gọt và xoa nhẵn hoặc chải kín bề mặt. Mặt dưới được cắt gọt và xoa nhẵn, rìa cạnh cắt vuông. Chất liệu đất sét màu đỏ tươi, xương mịn, lẫn nhiều vân vàng.

* Ngói lòng máng có men:
Ngói lòng máng, lợp thân mái, men trắng: Hình chữ nhật, đường kính phần đầu và phần đuôi tương đương, thân dày không đều, phần đầu dày hơn phần thân. Ngói được tạo bằng khuôn gỗ, mặt trên làm nhẵn trước khi tráng men hoặc có dấu chải, men phủ lên dấu chải.Rìa cạnh đầu cắt phẳng hình vuông, lượn tròn hay cắt vát. Trong lòng có tráng men, phần đuôi ngói không men. Một số mảnh ngói có khắc chữ Hán, thường là các chữ “Kỷ”, “tỵ”, “nhất”, “nhị”, “tam”. Chất liệu đất sét trắng, xương ngói mịn hoặc có pha cát hạt nhỏ. Kích thước trung bình: Dài: 21-34cm, ĐK đầu 24-41cm, ĐK đuôi 36-41cm, dày thân 1,7-2,5cm.
Ngói lòng máng, lợp thân mái, men xanh lục: Hình chữ nhât, được tạo bằng khuôn gỗ, mặt trên làm nhẵn trước khi tráng men hoặc có dấu chải, men phủ lên dấu chải. Phần đầu được tạo bằng cách cắt bớt độ dày thân, dày bằng khoảng 1/2 độ dày thân. Thân dày đều. Chất liệu đất sét trắng, xương ngói mịn.
2.2. Ngói phẳng: Số lượng ít hơn ngói cong, gồm: ngói mũi sen, ngói mũi tròn và ngói mũi nhọn.
2.2.1. Ngói mũi sen: Ngói hình chữ nhật, được tạo bằng khuôn, một số bề mặt có tu chỉnh bằng kỹ thuật cắt gọt, một số bề mặt thô, đầu mũi hình cánh sen được tạo bằng cách cắt gọt bớt độ dày thân hoặc đường chỉ chìm. Chất liệu làm từ đất sét màu đỏ tươi có vân vàng hoặc đất sét màu đỏ sẫm. Không trang trí hoa văn. Dựa vào kỹ thuật tạo đầu mũi, chia thành 2 loại: Ngói mũi sen đơn và ngói mũi sen kép.

2.2.1. Ngói mũi nhọn: Hình chữ nhật, tạo bằng khuôn gỗ, mặt dưới tiếp xúc với sân/nền phần đầu cắt vát hai bên tạo mũi nhọn hình tam giác, phần đuôi có móc lợp, bề mặt thô, không có dấu vết cắt gọt. Chất liệu đất sét mịn, màu đỏ tươi có vân vàng hoặc đất sét mịn, màu đỏ sẫm. Phần móc cài được tạo đơn giản bằng cách se đất, xung quanh có dấu miết tay, bóp đất ở giữa thân tạo gờ nổi làm móc cài, được tạo đơn giản bằng 2 hoặc 3 dấu miết tay.

2.2.3. Ngói mũi tròn: Hình dáng và kích thước tương tự như ngói mũi sen, khác biệt về phần đầu mũi tròn.

3. Một vài nhận xét
Vật liệu lợp trên bộ mái kiến trúc thời Lý - Trần phong phú và đa dạng. Chất liệu của các loại hình vật liệu kiến trúc tương đối đồng nhất với đất sét chọn lọc kỹ pha trộn cát hạt mịn, màu đỏ có vân vàng là màu chủ đạo, nung ở nhiệt độ cao nên tạo ra độ cứng tốt, độ hút ẩm thấp, chịu được mưa nắng đảm bảo cho độ bền của các công trình kiến trúc.
3.1. Ngói cong:
Về chất liệu: chất liệu ngói thời Lý - Trần thường được làm rất kỹ, xương mịn. Loại màu đỏ thì có màu đỏ tươi; ngói men thường được là đất sét có pha cao lanh (?), xương mịn màu trắng hoặc trắng hồng, độ thiêu kết giữa men và xương khá cao.
Về kỹ thuật các loại hình ngói đều được làm bằng khuôn gỗ, tạo dáng trên khuôn định hình. Phần đầu ngói hoa văn trang trí được tạo bằng những khuôn khắc chìm, in vào phần đầu viên ngói khi còn ướt, sau khi nung tạo ra các đầu ngói trang trí các mô típ nổi. Các đường diềm, rìa cạnh được tu chỉnh, cắt bẻ trước khi nung. Trên ngói dấu vết khuôn in còn để lại rõ nét, lòng ngói có dấu vết vải lót khuôn. Các loại hình ngói ống, ngói lòng máng lợp diềm mái thường được tạo bằng kỹ thuật ghép nối. Phần thân ngói và phần đầu ngói, yếm ngói được làm riêng lẻ sau đó gắn ghép vào với nhau. Phần tiếp giáp này được đắp thêm đất sét và được miết kỹ để kết dính hai phần lại với nhau.


Về hình dáng: Ngói thời Lý - Trần có dáng thuôn dần về đuôi (đường kính thân ở phần đầu lớn hơn đường kính thân ở phần tiếp giáp với đuôi), thân ngói mỏng dần về đuôi, đuôi dài (5-7cm) và liền khối với thân, độ dày của đuôi nhỏ hơn hoặc bằng 1/2 độ dày của thân. Các viên ở hàng diềm mái được gắn thêm đầu ngói hình tròn, trong lòng trang trí văn hoa sen hoặc hình rồng. Đầu được gắn vuông góc với thân, lá đề cân trang trí rồng được gắn trên lưng ngói.
Về hoa văn trang trí: Ngói ống lợp diềm mái thời Lý - Trần đều gắn thêm đầu ngói, trong lòng đầu ngói có trang trí, họa tiết trang trí giữa các thời cũng có nhiều nét khác biệt. Bên cạnh đó, trên lưng ngói lợp diềm mái thời Lý - Trần còn được gắn thêm hình lá đề hoặc tượng uyên ương, trong lòng lá đề thường trang trí hình rồng hoặc hình phượng. Đây là một đặc trưng hết sức tiêu biểu trên ngói ống thời Lý - Trần, kiểu thức trang trí này chưa thấy có ở bất kỳ nơi nào, kể cả quê hương của loại ngói này là Trung Quốc.
Hoa văn trang trí trên đầu ngói thời Lý - Trần có hai đề tài chính là hoa sen và hình rồng. Hình rồng được trang trí trong tư thế cuộn tròn, đầu hướng vào tâm, hoa sen được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau, tạo nên sự đa dạng về họa tiết. Đến thời Lê, họa tiết hình rồng vẫn là hình tượng trang trí được sử dụng phổ biến, hình tượng hoa sen được thay thế bằng các hình tượng hoa mai. Chúng ta đều biết các họa tiết này không chỉ có ý nghĩa về mặt mỹ thuật mà còn thể hiện tư tưởng hết sức sâu sắc. Hình tượng rồng, phượng biểu trưng cho quyền lực của nhà vua, hoa sen hay hình tượng lá đề là biểu hiện tư tưởng của Phật giáo, trong khi đó hoa mai là biểu trưng cho triết lý Nho giáo và sự thanh bạch của nhà Nho, điều này phản ánh tư tưởng của từng thời kỳ. Thời Lý Trần, Phật giáo phát triển với sự hậu thuẫn của triều đình, nó đóng vai trò như là quốc giáo, tư tưởng này được phản ảnh sâu sắc trong mỹ thuật thời Lý - Trần, chính vì vậy có nhiều người cho rằng mỹ thuật Lý - Trần là mỹ thuật Phật giáo. Hình tượng rồng không chỉ được sử dụng như một họa tiết trang trí mà nó được sử dụng với những quy định nghiêm ngặt, theo đó chúng ta biết được những hình tượng rồng năm móng chỉ được trang trí trên những gì thuộc về vua.
Về chức năng các loại hình ngói tạo nên bộ mái của các công trình kiến trúc. Những viên ngói ống lợp diềm mái với phân đầu ngói trang trí hoa văn phong phú và đa dạng không chỉ là những viên ngói đỡ ở hàng cuối cùng trong mái mà với những mô típ hoa văn trang trí của nó cùng những phù điêu gắn trên nóc đã tạo nên những nét đẹp của bộ mái kiến trúc. Những viên ngói ống thường có sự liên kết với các viên ngói âm với nhau và giải quyết vấn đề thoát nước cho bộ mái trong những cơn mưa xối xả của mùa hè hay những đợt mưa dầm ròng rã của mùa đông.
3.2. Ngói phẳng
Ngói cánh sen là một loại ngói xuất hiện vào thời Lý và phát triển mạnh vào giai đoạn sau đồng thời hình thành các loại ngói biến thể khác.
Về kỹ thuật: Ngói cánh sen được làm bằng khuôn, phần mũi được đắp thêm sau đó có tu chỉnh bằng việc cắt gọt làm cho bề mặt ngói nhẵn.
Về trang trí: Ngói cánh sen lợp diềm mái thời Lý - Trần cũng được gắn lá đề trang trí trên lưng ngói, và cũng giống như các họa tiết trang trí trong lòng lá đề gắn trên lưng ngói ống, hình tượng trang trí trong lòng lá đề gắn trên trên ngói cánh sen chủ yếu là rồng và phượng. Bên cạnh đó, phần đầu của những viên ngói lợp diềm mái còn được tạo hình đặc biệt để khi kết đặt các viên này gần nhau tạo hiệu quả nhiều lớp cánh theo kiểu lớp cánh chính và lớp cánh phụ xen kẽ nhau.
Một loại hình ngói mà chúng tôi cho là sự biến thể của ngói cánh sen đó là ngói mũi lá. Ngói mũi lá cũng là loại ngói phẳng, đầu nhọn giống hình mũi lá. Thân dày đều từ đầu đến đuôi và không trang trí hoa văn.
Loại ngói này chỉ tồn tại dưới thời Trần, sau đó dường như lại có sự hoà hợp với ngói cánh sen tạo nên một hình dáng ngói cánh sen thời Lê với phần đầu không còn cong tròn đều như ngói cánh sen thời Trần nữa và có hướng thẳng vát ở hai bên cong tròn ở phần mũi.
Một đặc điểm khác nữa của loại hình ngói phẳng thời Lý - Trần và các thời sau đó là các móc gài. Móc chỉ tồn tại trên các loại ngói cánh sen thời Lý - Trần hay ngói mũi lá thời Trần, trên ngói cánh sen các thời sau này không còn xuất hiện nữa. Các loại ngói phẳng tìm được ở Hoàng thành Thăng Long cũng như các di tích khác thời Lý - Trần đã cho thấy móc gài càng ngày càng không được chú trọng và hoàn toàn mất đi trên ngói cánh sen của thời Lê. Điều này phản ánh điều gì? Chúng ta biết, công dụng của móc gài là để mắc viên ngói vào các thanh mè, như vậy móc gài chỉ có tác dụng khi ngói và thanh mè tiếp xúc trục tiếp với nhau, tức là giữa ngói và rui mè không có gì ngăn cách, khi không còn móc gài thì cũng không có sự tiếp xúc trực tiệp giữa mè và ngói nữa (?). Chúng tôi cho rằng những chuyển biến về mặt cấu trúc và hình dáng của ngói có liên quan đến sự chuyển biến trong kỹ thuật lợp mái kiến trúc và cấu trúc của mái, đây là vấn đề hết sức quan trọng và nó rất cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Với một số lượng lớn, phong phú đa dạng về loại hình và kiểu dáng, các mô típ hoa văn trang trí chứng tỏ tại khu di tích 18 Hoàng Diệu đã từng tồn tại những kiến trúc qui mô lớn của Hoàng cung thời Lý - Trần. Các loại hình vật liệu trên bộ mái kiến trúc thời Lý - Trần phản ánh rõ nét đặc sắc của dân tộc Việt Nam..
TS.Bùi Thị Thu Phương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đại Việt sử ký toàn thư 1998. Tập 1. Nxb. KHXH. Hà Nội.
2.Phạm Như Hồ, Phạm Quốc Quân 2004. Vật liệu xây dựng các di tích kiến trúc Việt Nam qua các thời kỳ so sánh và đối chiếu với khu di tích Hoàng thành Thăng Long. Tư liệu VKCH.
3.Hoàng Văn Khoán 2000. Kỹ thuật chế tạo đầu ngói ống hoa sen ở Luy Lâu. NPHMVKCH: 627-628.
4.Nguyễn Hồng Kiên và cộng sự 2005. Nghiên cứu so sánh hệ thống vật liệu kiến trúc khu di tích Hoàng thành Thăng Long với các di tích trong nước giai đoạn 1-2005. Tư liệu HTTL.
5.Lê Đình Phụng 2000. Đầu ngói ống Chămpa. Khảo cổ học số 1: 96-103.
6.Tống Trung Tín, Lê Đình Phụng 1986. Báo cáo khai quật khu di tích Luy Lâu. Tư liệu VKCH.
7.Tống Trung Tín 1987. Vật liệu kiến trúc Việt Nam trong 10 thế kỷ sau Công nguyên. Khảo cổ học số 4: 45-60.
8.Tống Trung Tín 2000. Hệ thống vật liệu xây dựng ở kinh đô Thăng Long qua các đợt khai quật Đoan Môn, Bắc Môn và Hậu Lâu. Khảo cổ học số 4: 27-52.
9.Tống Trung Tín và cộng sự 2000. Khai quật địa điểm Đoan Môn (Hà Nội) năm 1999. Khảo cổ học số 3: 11-32.
10.Tống Trung Tín và cộng sự 2009. Tiến thêm một bước trong việc nhận diện mặt bằng các di tích kiến trúc cung điện Hoàng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu (2004-2008). Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế: Nhận diện giá trị khu di tích Hoàng thành Thăng Long sau 5 năm nghiên cứu so sánh (2004-2008).
11.Việt Sử lược 2005. Bản dịch của Trần Quốc Vượng. Nxb. Thuận Hóa.
Nguồn minh họa: Bản ảnh, bản vẽ, bản scan - Viện Khảo cổ học