Lam Kinh vốn là đất Lam Sơn, quê hương của anh hùng dân tộc Lê Lợi, nơi phát tích của cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược. Ngay sau khi giành thắng lợi, năm 1430, nhà Lê đã cho đổi Lam Sơn thành Lam Kinh (Tây Kinh). Theo đó, các vua Lê đã cho xây dựng ở đây nhiều công trình điện miếu có qui mô to lớn và đây cũng trở thành nơi an táng các vua và hoàng hậu Lê sơ. Trong thời gian dài hơn 300 năm của nhà hậu Lê, Lam Kinh được coi là kinh đô thứ hai của nhà nước Đại Việt thời Lê, là vùng “đất căn bản” của nhà Lê. Qua ghi chép của sử sách và truyền thuyết dân gian, chúng ta biết được hàng năm “xuân thu nhị kỳ” các vua và hoàng tộc nhà Lê đều về Lam Kinh bái yết sơn lăng, dân làng khu vực Lam Sơn đón xa giá nhà vua và tùy tùng với những lễ hội dân gian vô cùng đặc sắc, sinh động như đánh trống đồng, hát rí ren (lí liên) (Ngô Sĩ Liên 1972: 139); cùng việc tiến hành các lễ nghi, chuẩn bị đồ tế, cúng… (Phan Huy Chú 1961).
Lam Kinh vốn là đất Lam Sơn, quê hương của anh hùng dân tộc Lê Lợi, nơi phát tích của cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược. Ngay sau khi giành thắng lợi, năm 1430, nhà Lê đã cho đổi Lam Sơn thành Lam Kinh (Tây Kinh). Theo đó, các vua Lê đã cho xây dựng ở đây nhiều công trình điện miếu có qui mô to lớn và đây cũng trở thành nơi an táng các vua và hoàng hậu Lê sơ. Trong thời gian dài hơn 300 năm của nhà hậu Lê, Lam Kinh được coi là kinh đô thứ hai của nhà nước Đại Việt thời Lê, là vùng “đất căn bản” của nhà Lê. Qua ghi chép của sử sách và truyền thuyết dân gian, chúng ta biết được hàng năm “xuân thu nhị kỳ” các vua và hoàng tộc nhà Lê đều về Lam Kinh bái yết sơn lăng, dân làng khu vực Lam Sơn đón xa giá nhà vua và tùy tùng với những lễ hội dân gian vô cùng đặc sắc, sinh động như đánh trống đồng, hát rí ren (lí liên) (Ngô Sĩ Liên 1972: 139); cùng việc tiến hành các lễ nghi, chuẩn bị đồ tế, cúng… (Phan Huy Chú 1961).
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về Lam Kinh, bên cạnh việc đào thám sát và khai quật khảo cổ học nhằm khôi phục các mặt bằng kiến trúc, xác định qui mô của các công trình điện miếu, có một vấn đề đặt ra là việc xác định vị trí của bến ngự thuyền rồng của các vua Lê khi về Lam Kinh ở đâu trong mặt bằng của khu di tích hiện nay ?. Đây là vấn đề hấp dẫn và rất có ý nghĩa, theo đó góp phần từng bước phục dựng lại diện mạo vốn có cũng như các vấn đề có liên quan đến Lam Kinh trong suốt quá trình tồn tại, đặc biệt, bổ sung dữ liệu cho phục hồi di tích bến ngự thuyền rồng trong mặt bằng tổng thể khu di tích Lam Kinh trong tương lai (Sơ đồ 1).

Sơ đồ mặt bằng tổng thể và phụ cận Lam Kinh (Nguồn: L.Bezacier 1942)
Khi tìm hiểu về vấn đề này, căn cứ trên mặt bằng hiện trạng của di tích, đã có ý kiến cho bến ngự thuyền rồng Lam Kinh chính là sông Ngọc và hồ Bán Nguyệt. Theo đó, các vua và hoàng tộc nhà Lê từ Đông Kinh về Lam Kinh, đi theo hệ thống đường thủy, qua sông Chu, tiếp đó sẽ đi vào sông Ngọc và cập bến ở hồ Bán Nguyệt (Sơ đồ 2).

Hồ Bán Nguyệt và sông Ngọc trong mặt bằng tổng thể di tích Lam Kinh
Trong quá trình khảo sát, khai quật nhiều vị trí ở khu trung tâm Lam Kinh, nhất là các hố đào thám sát tại khu vực sông Ngọc, hồ Bán Nguyệt cùng khu vực phụ cận làng Cham hiện nay trong mối liên hệ với sông Chu (ở phía trước của khu Lam Kinh) chúng tôi đã quan tâm tìm hiểu những dữ liệu khảo cổ học và khảo sát thực địa để bước đầu lý giải về vấn đề này.


Dấu tích La Thành
1.Trước khi đi vào xem xét, tìm hiểu những dữ liệu khảo cổ học cùng việc đối sánh, khảo sát thực địa để tìm hiểu vết tích bến ngự thuyền rồng, chúng ta cùng hình dung về cảnh quan khu vực Lam Kinh như thế nào trước những thông tin, miêu tả của các sử gia phong kiến. Phan Huy chú trong Lịch triều hiến chương loại chí nêu: “Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nước biếc, rừng rậm um tùm. Vĩnh lăng của Lê Thái Tổ, Chiêu lăng của Lê Thái Tông và các lăng vua Lê đều ở đây cả. Lăng nào cũng có bia ở đằng sau, lấy Tây hồ làm não giống hồ Kim Ngưu. Hồ rất rộng lớn nước ở các ngả đều chảy vào đó, có con sông phát nguyên từ hồ ấy chạy vòng trước mặt, lòng sông có những viên đá tròn và nhỏ trông rất thích mắt, nhưng không ai dám lấy trộm, lại có lạch nước nhỏ chạy bên phải trước điện ôm vòng lại giống cánh cung (sông Ngọc - NVĐ), trên lạch có Bạch kiều giống ở Giảng Đình, điện Vạn Thọ (Đông Kinh) đi qua cầu mới tới điện rất cao.” (Phan Huy Chú 1961: 39-40).
Đại Nam nhất thống chí cho biết: “Lam Kinh nhà Lê ở phía Tây núi Lam Sơn tại xã Quảng Thi, huyện Thuỵ Nguyên, phía nam trông ra sông Lương, phía bắc gối đầu vào núi Dầu. Thời Thuận Thiên (Lê Lợi) lấy đất này làm Tây Kinh cũng gọi là Lam Kinh, xây dựng cung điện trông ra sông, có hồ lớn giống hồ Kim Ngưu, có khe nước đổ vào hồ này. Lại có khe nước bắt nguồn từ hồ chảy qua trước điện rồi vòng lại hình cánh cung (sông Ngọc – NVĐ), bắc cầu lợp ngói ở trên, đi qua cầu mới tới điện. Dưới chân núi Dầu là nhà Lê Lợi” (Quốc sử quán triều Nguyễn 1971).

Bãi bồi sông Chu nhì từ cầu Mục Sơn

Bãi bồi sông Chu nhìn từ Lam Kinh
Như vậy qua miêu tả của các sử gia phong kiến chúng ta có thể hình dung diện mạo khá rõ nét của Lam Kinh với sông Lương (Chu) ở phía trước, núi Dầu ở phía sau, hồ Tây ở phía tây, khe nước (Ngọc Hà, sông Ngọc…) chảy từ hồ Tây qua trước điện Lam Kinh. Trong các ghi chép kể trên, hồ Bán Nguỵệt nằm phía trước điện Lam Kinh không thấy được đề cập. Với hình thế sông, núi như vậy thuyền rồng của các vua Lê sẽ cập bến như thế nào, trước tiên chúng ta hãy thử tìm hiểu về sông Ngọc và hồ Bán Nguyệt vốn được coi là bến ngự thuyền rồng Lam Kinh.
2.Sông Ngọc nằm ở phía trước (nam) khu trung tâm di tích Lam Kinh, sông cạn khô nước, lòng sông nông. Bề mặt là lớp đất đen do bùn đất lắng đọng, có nhiều vật liệu kiến trúc và đá kè thời Lê rơi xuống. Năm 1997 và 2001, sông Ngọc đã được đào thám sát nhằm tìm hiểu độ sâu, kích thước cũng như cấu tạo bờ kè hai bên bờ sông Ngọc (Nguyễn Văn Đoàn 2001). Kết quả cho thấy ngay phía dưới lớp đất bùn đen dày 30 - 40cm xuất lộ đất màu vàng cứng, lẫn nhiều sỏi nhỏ, là cấu tạo đất đồi lateritte. Kết quả cho thấy, sông Ngọc chỉ sâu khoảng 2,5m so với bề mặt hiện tại, rộng khoảng 12,5m đến 15m. Lòng sông hình chữ U, cong đều về hai phía. Bờ sông được kè đá phiến khá vững chắc. Qua kết cấu, đặc biệt là vật liệu tham gia bờ kè sông Ngọc cho biết dấu tích của đợt kè hai bờ sông Ngọc vào niên đại khoảng thế kỷ 17, tương ứng với niên đại của lớp kiến trúc Lê trung hưng của các điện, miếu và các công trình kiến trúc khu vực trung tâm. Như vậy, sông Ngọc với qui mô, kích thước được xác định qua vết tích khảo cổ học có lẽ vốn là một lạch nhỏ được khơi đào, mở rộng cùng với quá trình qui hoạch khi xây dựng điện miếu Lam Kinh và hẳn chỉ đóng vai trò như là “ngoại hào” của trung tâm Lam Kinh. Tên gọi sông Ngọc hay khe Ngọc phản ánh rõ điều đó và tên gọi này chỉ có ý nghĩa tượng trưng khi nó được gắn với các vùng đất linh thiêng như Lam Kinh cũng như tên gọi Ngọc Hà (đình, sông, làng…) ở Thăng Long - Hà Nội. Sông Ngọc chỉ có ý nghĩa giải quyết môi trường sinh thái và bảo vệ, không thể đảm nhiệm chức năng giao thông. Do đó, giả thuyết cho rằng thuyền rồng của vua về bái yết sơn lăng theo dòng sông này để tiến vào khu điện miếu trung tâm là không có cơ sở. Vả lại những di tích còn sót lại của cây cầu Bạch, chứng tỏ cây cầu vốn làm bằng gỗ theo kiểu “thượng gia hạ kiều”, quy mô của cầu cũng không mấy đồ sộ để thuyền bè có thể đi lại dưới cầu tiến vào bến đỗ là hồ Bán Nguyệt.
Hồ Bán Nguyệt nằm ở ngay phía trước Nghi Môn, nay đã khô cạn và có hình dáng gần hình chữ nhật. Năm 1997, đã có 6 hố đào thám sát xung quanh bờ hồ. Kết quả cho thấy bờ hồ được kè đá hộc và phiến giống như ở sông Ngọc. Các vỉa đá đều bị trôi trượt ít nhiều, không còn nguyên vẹn, nhiều viên bị rơi xuống lòng hồ. Nơi bờ đá kè còn khá nguyên vẹn, cao 90cm rộng từ 0,7m - 1m, phần lớn chỉ cao 30 - 40cm.

Vết tích bờ kè sông Ngọc
Kết quả từ các hố đào thám sát cho thấy, tên gọi hồ Bán Nguyệt hiện nay không phản ánh được hình dáng vốn có. Có thể ban đầu hồ có hình dáng gần bầu dục. Quá trình bồi đắp, kè, sửa sau này đã tạo thành hình gần chữ nhật như hiện nay, kích thước 36,2m x 27,5m. Dựa vào dấu vết bờ kè còn lại có thể biết bờ phía nam tiếp giáp với sông Ngọc chính là bờ lở, đã bị phá vỡ và thay đổi nhiều. Lớp đất vàng phù sa sông thấy hầu hết ở trong các hố đào phía nam đã chứng minh điều đó. Tình trạng ở bờ phía bắc của hồ còn lại khá nguyên vẹn. Lòng hồ sâu trung bình 4,2m (Phạm Quốc Quân, Nguyễn Văn Đoàn 1996).
Hố đào thám sát đã được thực hiện để tìm hiểu mối liên quan của hồ với sông Ngọc, xem, liệu thuyền rồng có thể xuôi theo sông Ngọc và cập bến ở hồ Bán Nguyệt mỗi lần vua về bái yết sơn lăng? Kết quả cho thấy ở chính vị trí được xem như lưu thông giữa hồ Bán Nguyệt với sông Ngọc, trắc diện các lớp đất đã không ủng hộ cho giả thiết này. Ở đây, chỉ thấy duy nhất đường ống cống thông với sông Ngọc (?), được tạo bằng những hàng ngói bò kích thước lớn, được xây dựng từ thời Lê sơ (thế kỷ 15-16). Với kích thước và cấu tạo như vậy, chắc hẳn, cống nước này chỉ có chức năng điều chỉnh mực nước lên xuống của hồ.
Hồ Bán Nguyệt với địa tầng các hố xung quanh khá ổn định và hàng đá kè quy chuẩn và đồng nhất với đá kè tường thành và sông Ngọc. Như vậy, hồ có quy mô nhỏ như hiện nay lại chỉ thông với sông Ngọc qua ống cống thoát nước không thể là bến đỗ của thuyền rồng. Hiện nay, vị trí hồ Bán Nguyệt nằm lệch hẳn so với trục trung tâm di tích, điều đó cũng chứng tỏ hồ có mặt trước khi qui hoạch tổng thể Lam Kinh, không thể là công trình nhà Nguyễn đào nhằm ngăn chặn long mạch nhà Lê như một số ý kiến đã nêu. Đây vốn là giếng làng, nơi cung cấp nước cho dân cư khu vực Lam Sơn. Khi Lam Kinh trở thành kinh đô, cùng với qui hoạch tổng thể của khu “sơn lăng, cấm địa” nhà Lê, hồ Bán Nguyệt đã được cải tạo ít nhiều cho phù hợp với tổng thể khu vực, nhưng vẫn giữ nguyên chức năng vốn có của giếng, đồng thời, có lẽ, sự tồn tại ấy còn đáp ứng những yêu cầu về cảnh quan, môi trường sinh thái cũng như hội thêm những yếu tố theo quan niệm về phong thủy khi xây dựng Lam Kinh.
3.Như vậy, từ việc nghiên cứu, khai quật và bước đầu lý giải công năng cũng như quá trình tồn tại của sông Ngọc và hồ Bán Nguyệt và mối quan hệ giữa chúng, có thể khẳng định đây không thể là bến ngự thuyền rồng Lam Kinh. Vậy bến ngự thuyền rồng Lam Kinh ở đâu, chúng ta chỉ có thể tìm lời giải đáp thông qua việc tìm hiểu mối quan hệ của Lam Kinh với dòng sông Chu ở phía trước và thông qua tài liệu khảo cổ học phát hiện ở đôi bờ sông Chu thời gian qua để lý giải sự biến đổi của nó, bởi sông Chu có vai trò rất to lớn, là huyết mạch đối với khu vực, có thể ngược lên vùng thượng nguồn hay xuôi về vùng đồng bằng trù phú.
Tài liệu khảo cổ học đáng chú ý đầu tiên được phát hiện từ thập niên 60 của thế kỷ trước khi bờ sông Chu bị sạt lở đã xuất lộ những đồ gốm cùng với bộ sưu tập đồ đồng gồm các loại vũ khí, trống và thạp thuộc văn hóa Đông Sơn ở bên hữu ngạn sông Chu (đối diện với Lam Kinh bên tả ngạn). Tài liệu khảo cổ ấy cùng với những phát hiện về văn hóa Đông Sơn ở Xuân Lập, Xuân Thắng, Yên Trường… trước tiên cho chúng ta hình dung phần nào diện mạo khu vực này từ hơn 2000 năm trước, đó là khu vực trù phú, với sự tụ cư đông đúc của cư dân Việt cổ. Đặc biệt, sự xuất hiện và hình thành những làng mạc, khu cư trú khá sầm uất ấy gắn với sự bồi đắp, lở bồi phù sa sông Chu. Sự thuần nhất với số lượng lớn của hiện vật của văn hóa Đông Sơn cùng sự vắng mặt dấu ấn các văn hoa kế tiếp ở khu vực cho phép giả thiết đoạn sông này đã bị sạt lở nghiêm trọng hay có những biến đổi bất thường.

Một góc hồ Tây, nơi cấp nguồn nước cho sông Ngọc
Bước vào khoảng đầu thế kỷ 15, gắn với bối cảnh của khởi nghĩa Lam Sơn, qua sử sách và truyền thuyết chúng ta được biết tới khu vực này khi gắn với nhân vật Lê Thận chài cá nhặt được gươm thần, là đầu mối của huyền thoại hoàn kiếm. Hiện nay, khu vực này vẫn tồn tại một làng chài đông đúc, tuy nhiên đã chuyển đổi từ khai thác tự nhiên sang chủ yếu là nuôi cá lồng. Theo lời kể dân gian, vào khoảng những năm 1960, khi phát hiện dấu tích văn hóa Đông Sơn, tại khu vực này vẫn còn nhà từ đường, văn chỉ và bia ghi công tích của Lê Thận, đến nay đều đã cuốn theo dòng sông, không còn dấu tích.
Như vậy, căn cứ vào thực địa, đặc biệt qua dấu tích khảo cổ học, có thể nhận thấy qui luật biến đổi của dòng sông Chu khá rõ nét. Trong khoảng thời gian hơn một nghìn năm, từ đầu Công nguyên đến khoảng đầu thế kỷ 15, khu vực tả ngạn sông Chu là bên bồi, theo đó, nằm đối diện bên kia là “kinh đô” Lam Kinh sẽ là bên lở. Ta có thể hình dung theo qui luật ấy, diện mạo cảnh quan khu vực Lam Kinh (thế kỷ 15-16 và sau đó đến tận thế kỷ 18) với bờ sông Chu nằm liền kề, rất gần, sát với khu trung tâm điện miếu Lam Kinh (Sơ đồ 1). Giả thiết này cũng được kiểm chứng qua ghi chép của Đại Nam nhất thống chí, theo đó đã cho biết khoảng vào thời Cảnh Hưng (nửa sau thế kỷ 18) khu vực Lam Kinh thường xuyên xảy ra lụt lội đã làm bờ sông sạt lở và ảnh hưởng “khá nghiêm trọng” đến điện Lam Kinh. Triều đình đã cử Ngô Thì Sĩ vào để kè giữ khắc phục tình trạng này (Quốc sử quán triều Nguyễn 1971). Trên thực địa, chúng tôi đã phát hiện thấy nằm ngoài và cách La Thành Lam Kinh khoảng 5 - 10m còn dấu tích của bờ đất nhô cao khoảng 1m, được gia cố bằng cuội và đất sét, chạy vòng cung ôm lấy La Thành. Qua nghiên cứu, có thể khẳng định, đây chính là dấu tích còn lại của bờ luỹ mà dân gian trong vùng vẫn nhắc tới được Ngô Thì Sĩ cho đắp.

Một góc sông Ngọc sau khi được phục hồi
Dường như là qui luật lở - bồi và những tác động, ảnh hưởng của sông Chu đối với khu vực này khá đậm nét. Kể từ thời điểm Lam Kinh bị sạt lở đến nay là khoảng hơn 300 năm, dòng sông lại đang chuyển mình khiến nơi này trở thành bãi bồi với phạm vi ngày càng rộng lớn, nơi cư trú và canh tác lúa và hoa màu của nhân dân trong vùng. Quá trình canh tác, sinh sống, người dân nơi đây đã thấy xuất hiện những vệt bùn đen ở sâu bên dưới, là dấu tích phản ánh thời kỳ khu vực này khi chưa được phù sa bồi đắp. Đặc biệt, tại khu vực nhà ông Lê Văn Hùng (nằm trước khu Lam Kinh hiện nay) khi đào móng làm nhà, đã tìm thấy nhiều mảnh gỗ dạng phiến cùng các di vật gốm sứ thời Lê nằm trong lớp bùn đen ở độ sâu từ 5 đến 7m so với bề mặt hiện tại như phản ánh dấu tích gia cố, vết tích còn lại của bến ngự thuyền rồng xa xưa (Sơ đồ 1). Giả thiết này khá logic khi ta căn cứ vào khoảng cách xuất lộ dấu tích bè gỗ đến khu điện miếu trung tâm Lam Kinh cũng như so sánh tương quan mặt bằng tổng thể Lam Kinh cùng những chỉ dẫn của sử thành văn, các truyền thuyết, dân gian. Từ đó, chúng tôi cho rằng khu vực này chính là bến ngự thuyền rồng Lam Kinh. Theo đó, các vua và hoàng tộc nhà Lê mỗi lần về Lam Kinh bái yết sơn lăng sẽ cập bến ở vị trí gần nhất, gần như thẳng hướng với trục trung tâm khu điện miếu Lam Kinh.
Hi vọng trong tương lai, với những phát hiện mới về vùng đất Lam Sơn, Lam Kinh đầy bí ẩn, nhất là những dữ liệu liên quan đến bến ngự thuyền rồng, sẽ là cơ sở góp phần bảo tồn và phục dựng đầy đủ hơn diện mạo kinh đô Lam Kinh trong lịch sử.
TS.Nguyễn Văn Đoàn
Chú Dẫn:
Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí. Tập 2. Nxb. Sử học 1960, tr. 39-40.
Ngô Sĩ Liên. Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 3. Nxb. KHXH 1972, tr. 139.
Nguyễn Văn Đoàn. Báo cáo khai quật di tích Lam Kinh lần thứ tư, năm 2001. Tư liệu Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Phạm Quốc Quân, Nguyễn Văn Đoàn. Báo cáo khai quật di tích Lam Kinh lần thứ hai, năm 1997. Tư liệu Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí. Tập 2. Nxb. KHXH 1971. tr. 203, 239.