Trưng bày là một trong những liên kết chính giữa bảo tàng và công chúng. Tương tự những phương tiện truyền thông, trưng bày tận dụng nhiều hình thức chuyển tải thông tin của nội dung trưng bày, hiện vật đến với khách tham quan thông qua các bài viết, các đoạn phim ngắn hoặc các thuyết minh giới thiệu trưng bày.
Trưng bày là một trong những liên kết chính giữa bảo tàng và công chúng. Tương tự những phương tiện truyền thông, trưng bày tận dụng nhiều hình thức chuyển tải thông tin của nội dung trưng bày, hiện vật đến với khách tham quan thông qua các bài viết, các đoạn phim ngắn hoặc các thuyết minh giới thiệu trưng bày.
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ hiện đại và công nghệ thông tin, trưng bày bảo tàng ngày càng có nhiều lựa chọn cho việc chuyển tải các nội dung, các thông điệp của bảo tàng đến với công chúng một cách hấp dẫn và phù hợp với từng đối tượng khách tham quan bảo tàng. Bên cạnh đó, xu hướng phát triển công nghệ hiện đại với các ứng dụng tương tác trên thiết bị kỹ thuật số, hoặc các ứng dụng giới thiệu trưng bày online còn đóng góp vai trò vô cùng hữu ích khi góp phần lan tỏa các nội dung trưng bày, các thông điệp của bảo tàng tới công chúng một cách rộng rãi hơn, cụ thể tới từng đối tượng người quan tâm với chi phí ít hơn, không bị khuôn trong phòng trưng bày và thời gian mở cửa của trưng bày. Với những ứng dụng như vậy, công nghệ hiện đại dễ dàng tạo lập được kênh kết nối hiệu quả giữa “lịch sử” đang được trưng bày tại bảo tàng tới các nhóm khách mục tiêu mà bảo tàng muốn hướng tới, đặc biệt, khi các kênh trao đổi thông tin này là kênh tìm hiểu kiến thức được giới trẻ hiện nay sử dụng.
Chính sách chung về việc ứng dụng công nghệ hiện đại
Trước hết, có thể nói chưa bao giờ việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong mọi hoạt động của đất nước được khuyến khích như hiện nay,chung cho các ngành, nghề là“Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020”được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012. Trong lĩnh vực di sản văn hóa, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020”(Quyết định số 581/QĐ-TTg,ngày 6/5/2009)với các nội dung cụ thể như:“Ứng dụng một cách hợp lý và có hiệu quả các thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới trong trưng bày và bảo quản tài liệu, hiện vật bảo tàng; ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và thông tin tư liệu bảo tàng; nối mạng các bảo tàng từ Trung ương đến địa phương. Chú trọng tính khoa học, tính hệ thống trong việc xây dựng “ngân hàng dữ liệu” về tài liệu, hiện vật bảo tàng. Phấn đấu 50 - 70% số tài liệu, hiện vật quý hiếm trong bảo tàng tỉnh, 70 - 100% tài liệu, hiện vật quý hiếm trong bảo tàng quốc gia được tin học hoá đến năm 2015 và năm 2020.”
Tiếp theo đó, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phê duyệt ”Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2013-2020, tầm nhìn 2030” với một số nội dung cụ thể cho hoạt động bảo tàng như:
- Ứng dụng công nghệ thông tin và tự động hóa trong các lĩnh vực di sản văn hóa, nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, thư viện;
- Ứng dụng công nghệ hệ thống GIS trong quản lý và khai thác thông tin về di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch.
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, ứng dụng công nghệsố hóa trong công tác bảo tồn di sản văn hóa ....”.
Với những chính sách hỗ trợ định hướng từ các cấp lãnh đạo như đã nêu trên đây, việc ứng dụng hiệu quả công nghệ hiện đại vào hoạt động trưng bày của bảo tàng hoàn toàn phụ thuộc vào sự sáng tạo của các cán bộ chuyên môn. Quan trọng hơn, với những chính sách này việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động trưng bày của bảo tàng không chỉ còn là một xu hướng chung cần tham khảo mà còn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các bảo tàng Việt Nam hiện nay.
Một số ứng dụng công nghệ trong hoạt động trưng bày bảo tàng
Ngay từ những năm 1980, khi công nghệ số mới hình thành, các bảo tàng trên thế giới đã tìm mọi cách để áp dụng những công nghệ mới nhằm bổ sung thêm kênh thông tin trong bảo tàng và thu hút sự quan tâm của công chúng tới các trưng bày. Tuy nhiên, khi công nghệ hiện đại đã phổ cập đến từng thiết bị cá nhân như hiện nay, bản thân công nghệ không còn là sức mạnh để thu hút khách tham quan đến với bảo tàng. Công nghệ hiện đại chỉ có thể góp phần thu hút khách quan khi được các cán bộ nghiên cứu trưng bày (curator) nghiên cứu xây dựng các chương trình, nội dung hấp dẫn để phát huy tiềm năng của các ứng dụng. Đồng thời, các ứng dụng này cần được tính toán và nghiên cứu để hướng tới từng đối tượng khách tham quan, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của công chúng.
Cơ bản, công nghệ hiện đại có thể hỗ trợ rất nhiều hoạt động trong trưng bày bảo tàng, từ việc quản lý hành chính thông thường tới việc mở rộng kênh thông tin để giới thiệu về trưng bày, tăng tính hấp dẫn,thu hút công chúng đến vàtiếp tục đếntham quan và tham gia các hoạt động của bảo tàng.
Thứ nhất, hỗ trợ trong việc quản lý trưng bày:
Cơ sở dữ liệusố về hiện vật trưng bày và các nội dung, câu chuyện liên quan: bên cạnh các phần mềm quản lý hiện vật thông thường, các bảo tàng thường tạo các kênh kết nối từ cơ sở dữ liệu chung của bảo tàng thành các cơ sở dữ liệu riêng (tạm thời) phục vụ từng trưng bày chuyên đề. Cơ sở dữ liệu này bao gồm các thông tin số về hiện vật, nội dung trưng bày, các video phỏng vấn, tài liệu liên quan… làm “chất liệu” cho cán bộ nghiên cứu tìm hiểu và xây dựng các trưng bày một cách thuận tiện và đầy đủ thông tin.
Với ứng dụng này, các cán bộ nghiên cứu trưng bày có thể lựa chọn các hiện vật có sẵn trong cơ sở dữ liệu chung của bảo tàng. Đồng thời, tạo các dữ liệu liên quan như phim tư liệu, tài liệu, thông tin về nhân chứng, cộng đồng liên quan… và địa chỉ, đường dẫn đến các nơi lưu giữ các hiện vật, tài liệu đó để khi cần làm việc trực tiếp với hiện vật, tài liệu… cán bộ trưng bày có thể tiếp cận chúng một cách nhanh và chính xác nhất. Hạn chế việc xây dựng nội dung trưng bày trên những dữ liệu về hiện vật và tài liệu giả định hoặc thiếu chính xác.
Trẻ em tương tác với công nghệ hiện đại trong trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Singapo.
Cơ sở dữ liệu nên được lưu trữ tập trung và được phân cấp quản lý, khai thác hợp lý. Xu hướng công nghệ mới cho phép áp dụng công nghệ điện toán đám mây (cloud) trong việc cập nhật, lưu giữ, bảo quản và khai thác cơ sở dữ liệu theo một chuẩn chung của quốc gia. Riêng nhưng tập trung, đảm bảo tính thống nhất về cấu trúc và lưu trữ quốc gia. Đồng thời, dễ dàng tạo lập các quy định phân quyền truy cập vào dữ liệu này để nghiên cứu, tổ chức trưng bày và phục vụ các hoạt động giáo dục.
Quản lý hiện vật trưng bày:tại các trưng bày lớn với số lượng hiện vật nhiều, có các yêu cầu thay đổi hiện vật định kỳ, thì việc quản lý các hiện vật trưng bày là một hoạt động khó khăn. Các phần mềm quản lý hiện vật trong trưng bày (có thể là một nhánh nhỏ của Phần mềm quản lý hiện vật bảo tàng) sẽ giúp các cán bộ bảo quản, cán bộ nghiên cứu trưng bày thực hiện việc quản lý các hiện vật trên trưng bày một cách thuận tiện và chính xác. Đảm bảo việc thay thế hiện vật trưng bày một cách đồng bộ mà vẫn đảm bảo nội dung (cốt truyện) của trưng bày. Đồng thời, các phần mềm này sẽ theo dõi thời gian tối đa các hiện vật được trưng bày, đăc biệt là các hiện vật cần điều kiện bảo quản riêng, khi chúng ở ngoài kho bảo quản.
Ứng dụng trong việc bảo vệ, kiểm soát môi trường trưng bày:các thiết bị cảm ứng nhiệt, độ ẩm và các thiết bị quan sát ban đêm là các ứng dụng vô cùng hữu ích cho việc kiểm soát môi trường trong trưng bày, kể cả khi có khách tham quan lẫn khi đóng cửa trưng bày vào ban đêm; kiểm soát an ninh, an toàn cho hiện vật trưng bày, đảm bảo không bị đánh cắp hay bị di chuyển ngoài chủ đích. Tuy nhiên, hiện nay các ứng dụng quan sát khu trưng bày đang gặp phải những phản ứng từ khách tham quan vì sự theo dõi quá sát, ảnh hưởng đến tính riêng tư của khách tham quan. Vì vậy, việc áp dụng các kỹ thuật này đòi hỏi các cán bộ chuyên môn cần có sự tính toán kỹ lưỡng, cẩn trọng để vừa đảm bảo nhiệm vụ đặt ra và vẫn đảm bảo môi trường thân thiện trong khu trưng bày.
Thứ hai, hỗ trợ tại trưng bày:
Thuyết minh tự động (audio guide/media guide/multimedia guide): đây là phương pháp thuyết minh nội dung trưng bày thông qua các thiết bị cá nhân di động, hỗ trợ hoặc thay thế việc các cán bộ thuyết minh trực tiếp với khách tham quan trưng bày. Trong một thời gian dài, hình thức giới thiệu trưng bày này đã tạo ra những chuyến thăm quan mới lạ, riêng biệt và khá thuận tiện cho khách tham quan bảo tàng. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của các kỹ thuật trưng bày, sự nhu cầu ngày càng khắt khe của khách tham quan, các hình thức thuyết minh tự động đã bộc lộ những điểm yếu của mình. Để việc sử dụng các thuyết minh tự động được hiệu quả, cần nghiên cứu các nội dung thuyết minh và đối tượng sẽ sử dụng các thiết bị thuyết minh tự động một cách cẩn trọng và có chiến lược phù hợp với tổng thể nội dung của trưng bày. Cơ bản, thuyết minh tự động hiện tại có các loại như sau:
Thuyết minh tự động với thiết bị tai nghe (audio guide): là việc ghi âm các bài thuyết minh và lưu trữ vào thiết bị, khi khách tham quan muốn nghe thuyết minh chỉ cần chọn số tương ứng với hiện vật và thiết bị sẽ tự động phát bài thuyết minh về hiện vật đó. Cách thức này thường dễ sử dụng, không quá đắt tiền, dễ bảo quản, có khả năng lưu giữ nhiều bài thuyết minh với nhiều thứ tiếng khác nhau. Tuy nhiên, trong các trưng bày hiện đại với các ứng dụng trưng bày tương tác đa dạng, người xem cần vận dụng các giác quan để thưởng ngoạn, tham quan và tìm hiểu nội dung trưng bày thì các thiết bị gắn vào tai và phát các ghi âm có sẵn thường gây nhàm chán và hạn chế khách tham quan tìm hiểu trưng bày một cách chủ động.
Khách tham quan quốc tế sử dụng thiết bị thuyết minh tự động (audio guide) tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
Thuyết minh tự động với thiết bị nghe - nhìn (media guide): tương tự như audio guide, kỹ thuật này bổ sung hình thức minh họa bằng hình ảnh với các chú thích bằng chữ hiển thị trên màn hình của thiết bị. Màn hình có thể ứng dụng các kỹ thuật cảm ứng thuận tiện, rất dễ sử dụng và phục vụ tốt các nhóm khách tham quan có các hạn chế về nghe. Kỹ thuật này cũng mở rộng hơn diện trưng bày khi có khả năng bổ sung nhiều thông tin, hình ảnh hơn. Thiết bị ứng dụng đắt tiền hơn, vận hành và bảo quản yêu cầu khắt khe hơn audio guide, người sử dụng thường cần được hướng dẫn cơ bản trước khi sử dụng. Tuy nhiên, kỹ thuật này cũng có những ưu điểm hấp dẫn và tiện ích hơn so với audio guide thông thường.
Thuyết minh tự động với thiết bị nghe - nhìn - tương tác (multimedia guide): đây là kỹ thuật các bảo tàng hiện đại ngày nay thường sử dụng trong trưng bày. Kỹ thuật và công nghệ phát triển, các ứng dụng kết nối thông tin không dây phát triển mạnh đã giúp kỹ thuật thuyết minh này đạt tới mức tự động gần như tuyệt đối. Nội dung được phát triển đa dạng và hấp dẫn hơn so với audio guide và media guide thông thường, sự tương tác của người sử dụng nhiều hơn, có thể điều chỉnh nội dung muốn tìm hiểu dễ dàng hơn với nhiều diện thông tin hơn. Cấp độ thông tin giới thiệu cũng đa dạng hơn từ những thông tin đơn giản cho trẻ nhỏ đến những thông tin chuyên sâu cho các chuyên gia nghiên cứu. Các thiết bị sử dụng còn có các khả năng mà các ứng dụng trước đây không có, ví dụ như tự động nhận biết vị trí người tham quan để cung cấp các thông tin, chỉ dẫn cần thiết và thậm chí cung cấp các trò chơi ảo liên quan đến các nội dung của trưng bày.
Thiết bị và kỹ thuật này đòi hỏi sự đầu tư khá công phu cả về tài chính lẫn nguồn lực con người, thường được áp dụng tại các bảo tàng lớn trên thế giới.
Phim, phim tương tác, phim 3D, 4D: kỹ thuật sử dụng các phim ngắn trong trưng bày thường mang lại những hiệu quả tích cực đối với khách tham quan. Các hình ảnh động kèm theo lợi thế về không gian, thời gian thường được các cán bộ nghiên cứu trưng bày sử dụng để diễn giải các nội dung trưng bày một cách chân thực, dễ hiểu. Các phim ngắn có thể là các phim tài liệu về khảo cổ học, giới thiệu lễ hội hoặc các phim phỏng vấn ngắn… Các phim được phục dựng với mục đích miêu tả nội dung lịch sử với kỹ thuật dựng phim tạo hiệu ứng theo ý muốn cũng là các ứng dụng hấp dẫn người xem. Kỹ thuật này sẽ giúp các cán bộ trưng bày kể câu chuyện của một trận đánh hay câu chuyện của một sự kiện văn hóa dễ dàng hơn, hấp dẫn hơn.
Trưng bày tương tác: với những quan điểm bảo tàng học mới, việc để khách tham quan tham gia sâu hơn vào các trưng bày ngày càng được chú trọng. Khách tham quan không chỉ đứng xem các hiện vật, đọc các chú thích một cách thụ động, mà còn được khuyến khích cảm nhận kỹ hơn các hiện vật (chất liệu, mùi vị…), đặt các câu hỏi hoặc trao đổi với nhau. Các ứng dụng khoa học hiện đại cũng hỗ trợ hình thức trưng bày tương tác khi cung cấp cho khách tham quan các trải nghiệm thực về khí hậu, động đất hoặc sự hiểu biết rõ hơn về cách thức sử dụng các dụng cụ cổ xưa… Việc ứng dụng các công nghệ hiện đại trong các trưng bày tương tác đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa cán bộ nghiên cứu trưng bày và các nhà phát minh, sáng chế khoa học. Việc “đặt hàng” của các cán bộ nghiên cứu trưng bày sẽ là nhiệm vụ để các nhà khoa học phát minh ra các thiết bị, ứng dụng cho trưng bày.
Trẻ em tham gia tương tác trong trưng bày tại Bảo tàng Nagoya, Nhật Bản.
Catalogue hiện vật dưới dạng số (Virtual catalogue): catalogue số luôn là cơ sở dữ liệu được các nhà nghiên cứu và khách tham quan chuyên sâu quan tâm. Catalogue cung cấp nội dung chi tiết về các hiện vật kèm theo hình ảnh chất lượng cao của toàn bộ hiện vật trưng bày, gồm các hiện vật đang trưng bày, các hiện vật sẽ trưng bày thay thế, giúp người xem tìm hiểu chuyên sâu và hiểu biết toàn cảnh về bộ sưu tập được trưng bày. Khi catalogue số được giới thiệu trên các website của bảo tàng, các chuyên gia và những người quan tâm sẽ có cơ hội tìm hiểu kỹ về các sưu tập được trưng bày từ xa, khi họ khó có cơ hội đến thăm quan trực tiếp tại bảo tàng.
Bảo tàng ảo hoặc trưng bày tương tác ảo trên mạng internet: trưng bày ảo là kỹ thuật sử dụng công nghệ phần mềm máy tính xây dựng không gian ảo (3D)máy tính giúp người xem tham quan trưng bày với hình ảnh 3D gần như mắt người nhìn thật. Dù kỹ thuật và công nghệ hiện đại nhưng trưng bày ảo bộc lộ nhiều hạn chế cho người xem, không gian ảo trên máy tính làm lu mờ các chi tiết của hiện vật và gần như xóa bỏ cảm nhận của con người về không gian thực (hình ảnh một chiếc bút bi và một tàu thủy được hiện thị tương đối bằng nhau trên màn hình máy tính). Xu hướng các bảo tàng thế giới không còn sử dụng kỹ thuật trưng bày ảo trên máy tính thông qua mạng internet, các trưng bày hiện tại chủ yếu mang tính giải trí thông thường, hoặc với mục đích quảng bá để thu hút khách công chúng đến tham quan bảo tàng. Với xu hướng bảo tàng học hiện đại, coi trọng sự tương tác, đối thoại thực giữa khách tham quan và trưng bày, thì các trưng bày ảo khó đảm bảo thỏa mãn yêu cầu của các trưng bày trong bảo tàng.
Máy in 3D tại Bảo tàng Nghệ thuật Khoa học Singapo.
In 3D: đây là công nghệ mới từ năm 2014, với bản vẽ 3D, máy in sẽ in ra các mẫu hiện vật như thật với kích thước thu nhỏ. Kỹ thuật này chưa được áp dụng cụ thể vào các trưng bày ở bảo tàng, tuy nhiên, hiện tại ứng dụng này đang là công nghệ hấp dẫn bên cạnh các trưng bày, nhất là các trưng bày về nghệ thuật. Hơn nữa, chi phí để in 3D cho một mẫu vật khá đắt, đặc biệt với khách tham quan bảo tàng ở Việt Nam.
Nguyễn Hải Ninh (Cục Di sản văn hóa)
Tham khảo:
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009.
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012.
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2013-2020, tầm nhìn 2030, của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt tại Quyết định số số 4227/QĐ-BVHTTDL ngày 29/11/2013.
Vài suy nghĩ ban đầu về số hoá di sản văn hoá, Nguyễn Hải Ninh, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 1 (26) 2009.
Ứng dụng công nghệ số trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam và kinh nghiệm của các nước trong khu vực, Nguyễn Hải Ninh, Hội thảo ứng dụng CNTT trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa các nước ASEAN tại Hà Nội, 2015.
Vai trò của “truyền thông sử dụng mạng xã hội” trong hoạt động của bảo tàng,Nguyễn Hải Ninh, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 1 (50) 2015.
Trends in Digital Cultural Heritage Management and Applications,Stavros Christodoulakis; MUSIC/TUC Laboratory, School of Electronic and Computer Engineering, Technical University of Crete.