Người Khơ me vùng đồng bằng sông Cửu Long có một nền văn hóa tâm linh, tín ngưỡng và nghệ thuật truyền thống rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là những giá trị văn hóa gắn liền với Phật giáo Tiểu thừa (Phật giáo Nam Tông).
Những di sản văn hóa quý báu này góp phần làm giàu bản sắc nền văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa Nam bộ nói riêng. Rất nhiều ý kiến cho rằng, người Khơ me là sắc tộc cuối cùng đã gặp gỡ, chung sống và giao hảo một cách đầy thiện cảm với cộng đồng người Việt trong hành trình khai khẩn vào phía Nam. Điều này có lẽ do đức tính hiền hoà, kín đáo, có phần khép kín trong nếp sống, nhưng văn hoá của họ lại cởi mở bởi tinh thần Phật giáo mở rộng và bao dung mà họ được thụ hưởng. Với người Khơ me Nam bộ, Phật giáo Tiểu thừa là tôn giáo dân tộc; mỗi người dân là một tín đồ và vì vậy ngôi chùa là một trung tâm quan trọng và linh thiêng nhất. Hầu hết người Khơ me từ khi mở mắt chào đời, theo tập quán đã cùng với gia đình tôn thờ đạo Phật. Lớn lên họ thường đi học trường chùa, được cha mẹ và sư sãi giáo dục theo tinh thần Phật giáo. Đến tuổi trưởng thành, (đôi khi sớm hơn), phần đông số thanh niên và trung niên đã vào tu trong chùa một thời gian. Các ngày sóc vọng, lễ lộc, người Khơme đi chùa tụng kinh, nghe sư sãi thuyết pháp. Nguyện vọng cuối cùng của người dân Khơme là khi chết thì được “an nghỉ dưới bóng cây bồ đề”, nghĩa là trong tinh thần sùng bái đạo Phật, hài cốt có thể lưu giữ ở nhà, hay ở chùa thì càng tốt. Cũng chính thông qua ngôi chùa mà người nông dân Khơme cảm thấy mình là một thành viên của phum, sóc. Chùa không chỉ là trung tâm tôn giáo mà còn là nơi tập trung trường lớp ở nông thôn, là chỗ họp dân để bàn chuyện công ích, nơi tiếp các vị khách quí của phum, sóc. Một số chùa quan trọng còn là Viện bảo tàng, là nơi tàng trữ thư tịch cổ. Mỗi ngôi chùa Khơ me là một bảo tàng lưu giữ rất nhiều những di sản quý báu như những sưu tập mặt nạ Chằn trong biểu diễn kịch múa Rôbăm, những bộ nhạc cụ Ngũ âm, những đồ dùng trong các nghi lễ tôn giáo… Trong đó, đặc biệt nhất và được người Khơme gìn giữ, coi như báu vật thiêng liêng là những cuốn kinh sách viết trên lá buông với hàng trăm năm tuổi. Đây là vật lưu giữ và trao truyền hầu hết những giá trị văn hoá tinh thần của người Khơ me từ xưa đến nay.
Theo các nhà nghiên cứu văn hoá Khơ me thì hầu hết kinh Phật, văn học của người Khơ me từ xa xưa được chép trên lá buông thường gọi Xatra, được lưu giữ cẩn thận ở các ngôi chùa Khơme. Có bốn loại Xatra: Xatra tes ghi chép những Phật thoại và kinh Phật, trong các dịp lễ lớn ở chùa được các nhà sư bắt thăm để thuyết pháp. Xatra rương là xatra truyện, phần lớn được sáng tác trên cơ sở các câu truyện cổ dân gian và xây dựng trên quan điểm tôn giáo và phong kiến. Các truyện này được kể theo lối tự sự và thể hiện bằng một thể thơ nhất định tùy theo tình huống của truyện. Xatra lbeng ghi chép về các hội hè, trò chơi dân gian trong đó, các lý thuyết nhân quả của đạo Phật cũng để lại nhiều dấu ấn. Xatra chbăp là những bài giáo huấn ca, có nhiều thể loại, dành riêng cho từng thành phần trong xã hội.
Trong đó đặc biệt quý là những cuốn kinh Phật, bởi nó là tinh tuý của đạo Phật, chứa đựng không chỉ các giáo lý đơn thuần mà còn là những triết lý sống, nhân sinh quan, thế giới quan theo tinh thần Phật giáo.
Hoà thượng Tăng Nô, trụ trì chùa Chùa Khléang - một trung tâm Phật giáo Tiểu thừa Nam bộ, kiêm Hiệu phó trường Phật giáo Pali Nam bộ - một người có kiến thức uyên bác về Phật pháp và am hiểu sâu sắc văn hoá Khơme cho biết: để góp phần vào việc bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa của người Khơme Nam bộ, hòa thượng đã trao tặng cho Bảo tàng Cách mạng Việt Nam nhiều hiện vật quý, trong đó đặc biệt quý là một cuốn kinh Phật cổ viết trên lá buông.
Kinh sách cổ chẳng những là báu vật trong chùa mà còn là vật thiêng của người Khơme. Hòa thượng Tăng Nô còn cho biết cuốn kinh này là loại kinh cổ được viết trên lá buông từ khoảng giữa thế kỷ XIX, được nhà chùa dùng trong việc nghiên cứu, giảng kinh và học tập của các sư tăng. Những năm đầu thế kỷ XX các cuốn kinh Phật thường được in trên giấy bản khổ lớn, xếp lại. Đến thập niên 40, 50 trở lại đây chúng thường được in và đóng quyển như các sách thông dụng khác. Hòa thượng cho biết thêm những cuốn kinh Phật viết trên lá buông hiện nay còn rất ít, chỉ có những chùa lớn, lâu đời mới lưu giữ được, cách làm và viết lá kinh cũng gần như thất truyền.
Cuốn kinh gồm 27 tờ được làm bằng lá buông đã ngả mầu sẫm vì thời gian, mỗi tờ dài 55cm, rộng 5cm và do 2 tờ lá buông chắp lại tạo độ dày và cứng. Trên diềm mỗi tờ được phủ một lớp nhũ màu vàng ở 2 đầu, một đầu là 18cm, đầu kia là 17,5cm, còn ở giữa được sơn màu đỏ. Dọc theo 2 vạch nhũ đỏ mỗi tờ lá buông lại được đục 2 lỗ tiện cho việc xỏ dây vải để liên kết thành cuốn. Tờ ngoài cùng ghi tên của cuốn kinh (theo Hòa thượng Tăng Nô thì có tên là “Hạnh phúc kinh”), tờ thứ hai và tờ cuối cùng để trắng có tác dụng như một tờ lót. Từ tờ thứ 3 đến tờ 26, cả hai mặt lá buông đều được dùng để viết chữ ghi nội dung của cuốn kinh. Hoà thượng Tăng Nô giảng giải: Ngoài là kinh sách cổ, cuốn này còn hàm chứa nội dung hết sức ý nghĩa là giúp con người có định hướng, quan niệm sống thiện, thắm đượm tinh nhân văn, cao cả theo tinh thần hướng thiện của Phật giáo. Tuy nhiên, đây là cuốn kinh cổ nên chữ viết cũng dùng dạng chữ cổ khác khác nhiều so với chữ Khơme hiện nay nên khó đọc và dịch một cách chi tiết ra tiếng Việt. Đại thể nội dung cuốn kinh nhằm: cung cấp cho con người có cách để hiểu, để thực tập giúp cho mình luôn được thảnh thơi, an lạc, tiếp xúc với những màu nhiệm của cuộc đời, đem lại cho mình hạnh phúc. Cùng với cách làm cho mình được hạnh phúc, cuốn kinh còn giúp con người cách lắng nghe để có thể hiểu những khó khăn, khổ đau của những người xung quanh và dành thời gian để nhìn lại, để chấp nhận và thương yêu họ “lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương”, giúp con người hiểu nhau hơn và đem lại hạnh phúc không chỉ cho riêng mình.
Nhìn những trang sách lá đã ngả màu vì thời gian hàng trăm năm nhưng nét chữ như không thay đổi, vẫn thanh gọn, mềm mại và cực kỳ sắc nét khiến tôi không khỏi tò mò và quyết tìm hiểu cách làm ra chúng. Qua hỏi chuyện với rất nhiều các chuyên gia, các nhà nghiên cứu văn hoá Khơme, các hoà thượng nổi tiếng ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, An Giang, tìm hiểu thêm qua các sách, báo viết về văn hoá Khơme, tôi đã biết được phần nào về giá trị, những công phu trong việc làm ra một cuốn kinh sách bằng lá buông.
Từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, vì lúc đó ở đây chưa thể in được trên giấy nên kinh Phật cũng như văn học của người Khơme được lưu truyền ở các chùa là do những nghệ nhân, sư sãi chép lại trên lá cây buông - một loại cây rừng có thân và lá rất giống với cây thốt nốt (nên có rất nhiều người lầm tưởng, ngay cả nhiều nhà sư cho rằng kinh lá được làm từ lá cây thốt nốt, loại cây đặc trưng của người Khơme), nhưng lá có độ bền cao hơn nhiều, để lâu không mục, không mối mọt và hiện còn rất ít ở vùng Bảy Núi, An Giang, nhưng còn khá nhiều ở vùng Xiêm Riệp, Campuchia. Để có những “tờ giấy’ bằng lá buông đủ tiêu chuẩn để chép kinh là cả một quá trình hết sức công phu, tỉ mỉ. Đầu tiên, người ta phải tìm chọn những búp lá buông non, đều, to bản, rồi gói cột lại, không cho phát triển hay xoè ra tiếp xúc với ánh sáng thì lá mới non, mềm giữ được màu trắng ngà. Sau khi cột 2, 3 tháng thì chặt búp mang về, dùng miếng ván gỗ có kích thước 6cm x 60cm kẹp vào xấp lá rồi cắt theo cỡ ván, sau đó đem phơi khô mới thành giấy để chép thành sách. Có giấy rồi, nhưng để viết kinh trên giấy lá này cũng khá đặc biệt, người ta phải chọn những vị sư, tăng có kiến thức uyên thâm, khéo tay, hay chữ thực hiện bằng cách dùng mũi sắt mài thật nhọn, hoặc dùng mũi kim làm ngòi bút, khắc cẩn thận từng chữ trên lá, bởi chỉ cần sơ ý một chút là tấm lá buông đó bị hỏng và phải bỏ đi. Viết xong, người ta lấy nước than gỗ, hoặc nước trái cau non trà lên, lau sạch chữ sẽ hiện rõ và càng để lâu, mặt lá càng bóng, chữ viết càng lấp lánh. Kinh lá buông phải được bọc trong vải cẩn thận, để nơi khô thoáng, và chỉ được mở ra trong những dịp quan trọng như Lễ Kiết giới, Lễ Phật đản, Lễ dâng y cà sa, Lễ cúng trăng...
Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển, việc in ấn nói chung, in kinh sách Phật giáo nói riêng cũng hết sức dễ dàng với nhiều kiểu thức, chất liệu, nhưng với người Khơme Nam bộ thì kinh Phật trên lá buông luôn là một bảo vật quý hiếm. Với nhiều giá trị về kỹ thuật, mỹ thuật, nghệ thuật làm sách độc đáo và chứa đựng nhiều nội dung, ý nghĩa tinh thần lớn lao và thiêng liêng của người Khơme từ thế hệ này sang thế hệ khác; qua đó góp phần vào việc truyền đạt Phật pháp, giáo dục về đạo lý, hình thành nhân cách, bảo tồn văn hoá, chữ viết hết sức độc đáo của người Khơme Nam bộ, góp phần làm giàu nền văn hoá Việt Nam đa dạng, thống nhất và đậm đà bản sắc trong thế kỷ XXI này. Lá buông ghi kinh Phật thật sự là một di sản văn hóa độc đáo, đặc sắc của người Khơme Nam bộ cần được lưu giữ, bảo tồn và có kế hoạch khôi phục.
Ths.Nguyễn Hoài Nam
Bảo tàng Lịch sử quốc gia