Năm nay, ông Nguyễn Văn Trân sang 100 tuổi Ta - tuổi trời cho. Nhưng có lẽ, người đương đại thường nhìn ông là cây cao bóng cả, bởi ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội từ 70 năm trước - năm 1946, khi Hà Nội mở đầu trang sử kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Có lẽ, rất ít người biết ông đã lập nghiệp và trưởng thành từ nghề thợ in báo. Đó là vào những năm 30 của thế kỷ XX, Hà Nội đã là trung tâm văn hóa - nghệ thuật - báo chí của cả nước.
*Từ người thợ in trở thành
cán bộ của Đảng
Ông Nguyễn Văn Trân chào đời
đúng năm 1917 -
năm cách mạng Nga thành công, tại làng Quan
Đình, xã Văn Môn, tổng Mẫn Xá, huyện
Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, nay là huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh. Trong gia đình đông tới 14 người con, ông
và người anh cả cùng 3 người em được ưu tiên cho đi
học ở trường làng. Sau khi thi đỗ “sơ học yếu lược”,
năm 1931, mới 14 tuổi, ông được gia đình gửi người anh rể
là Nghiêm Văn Ngũ đưa ra Hà Nội học nghề in; bắt
đầu bằng việc sắp chữ cho
báo
Đông phương thực nghiệp do nhà báo Nhượng
Tống làm chủ bút tòa soạn ở phố Hàng Gai.
Ông kể: Mấy tháng học nghề không
lương, chỉ làm chân loong toong sai vặt cho các anh
lớn tuổi hơn và mỗi tháng ông chủ cho lĩnh 5 xu; đến
tháng thứ 6, tôi được lĩnh 3 hào tiền Đông
Dương, bằng tiền lương công nhật trung bình của công
nhân hàng tháng. Số lương còm ấy, cũng
tàm tạm trang trải cho bữa ăn hàng ngày.
Tôi, kẻ hậu sinh, không thể hình dung
với ba hào thì ông trang trải đời sống thế
nào. Ông cười: Thiếu quá lại về xin gia đình
thôi. Mỗi ngày phải làm 10-12 tiếng, tiếp
xúc với “bát chữ” 24 chữ cái,
có chất chì, rất độc hại. Bữa ăn chỉ có
cơm rau, đôi khi có cá; không bao giờ
có thịt. Tôi bị bệnh tê phù, phải mua
cám rang lên để ăn, chữa bệnh. Phải một năm làm quần
quật như thế, ông chủ báo mới xếp tôi vào
thợ chữ chính thức và được lương 6 đồng một
tháng”.
Ông Nguyễn Văn Trân thân mật trò
chuyện cùng tác giả.
Làm báo Đông Phương thực nghiệp, lần đầu
tiên ông đã chứng kiến Sở kiểm duyệt bắt bỏ trắng
báo. Ấy là năm 1930, các hội viên của Việt
Nam Quốc dân Đảng tổ chức khởi nghĩa Yên
Bái, bị bắt, bị chém tử hình ở nhà
tù Hỏa Lò. Bài viết đăng tin và có
dùng từ Hội
kín, lập tức, báo sắp lên khuôn
bị bỏ ngay phần tin ấy, để trắng. Dần dần, vừa làm thợ in, vừa đọc
các báo, tìm hiểu đời sống xã hội, lại được
ông Nguyễn Kim Linh là đảng viên, làm thợ
in tại nhà in Trung Bắc Tân Văn tuyên truyền,
ông đã giác ngộ, đến với cách mạng.
Duyên nghiệp nghề in báo đã sớm đưa ông
Nguyễn Văn Trân đến với con đường mới để giải phóng
dân tộc là như thế.
Năm 1936, phong
trào Đông Dương Đại hội như luồng gió mới thổi
vào đời sống tù đọng, ngột ngạt của nhân
dân. Một tuần một lần, anh em thợ in đến nhà in
Lê Văn Tân nghe ông Trần Huy Liệu công khai
diễn thuyết về quyền tự do dân chủ, lập ái hữu của thợ thuyền…Lần
đầu tiên người thợ in Nguyễn Văn Trân được biết đến
Liên bang Xô Viết qua phóng sự của ông Trần
Đình Long. Ánh sáng ùa vào nhận thức,
tư tưởng tình cảm, thúc giục ông hăng hái
tham gia hoạt động bí mật. Mỗi ca in báo, ông tranh
thủ tuyên truyền trong anh em thợ. Sau lớp huấn luyện do đồng
chí Trường Chinh giảng, tháng 3 năm 1936, trong căn
nhà chật hẹp của ông Nguyễn Kim Linh ở phố
Hàng Cót, ông Trân được kết nạp
vào Đảng, và trở thành cán bộ hoạt
đông trong Hội ái hữu thợ in. Năm 1937, dưới sự chỉ đạo của
Bí thư Xứ ủy kiêm Bí thư Thành ủy Lương
Khánh Thiện, ông Trân là một trong 7 người
của Ban đại biểu Liên đoàn Lao động lên gặp Thống sứ
Châtel (Sa-ten) đưa yêu sách đòi
“Tự do tổ chức nghiệp đoàn”. Châtel chỉ
cho lập Hội Ái
hữu, nên sau đó, các nhà máy,
các ngành đều tổ chức Hội Ái hữu và đấu tranh đòi
quyền lợi của người lao động.
Nghiệp
đoàn thợ in Hà Nội tham gia cuộc mít tinh khổng lồ kỷ
niệm ngày quốc tế lao động tại khu vực đấu xảo (nay là Cung
Văn hoá Hữu nghị), ngày
1/5/1938.
Đoàn bán báo
tham gia mít tinh tại Hà Nội, ngày 1/5/1938.
Kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động
1/5/1938, dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Dân chủ Đông Dương,
ông tổ chức anh em ngành in giương cao biểu ngữ, khẩu hiệu,
hào hứng, sôi nổi đi đòi quyền lợi của công
nhân. Nhớ
lại câu chuyện phải ăn ngủ ngay tại trụ sở Ái hữu
ngành in để chỉ đạo thợ in và chịu nạn thất nghiệp
hàng tháng trời, ông nói:
Mỗi bữa,
tôi chỉ ăn bánh mì 2 xu do anh em thợ tương trợ, rồi
tôi phải chuyển qua nhiều nhà in các báo
Đông Pháp, Ngọ Báo,
Tin Mới, Cậu Ấm… với đồng lương rẻ mạt. Hồi ấy, chuyển đến mỗi nhà in
báo xin việc phải có thẻ do Sở Lao động cấp, gọi
là Livre de Travail, người quản
lý báo mới cho vào làm thử việc; nhưng
tôi vẫn thay đổi nơi làm, không cố định lâu
ở nhà in nào để giữ bí mật. Các
nhà in nhỏ cũng chỉ trả lương cho tôi 6 đến 8 đồng một
tháng thôi, và tôi cũng dành ra một
phần lương để giúp Hội ái hữu thợ in hoạt động.
Năm
1938, cơ quan lãnh đạo Thành ủy Hà Nội kiện
toàn, ông Trần Quý Kiên (tức Đinh
Xuân Nhạ) làm Bí thư Thành ủy thay
ông Lương Khánh Thiện chuyển công tác
khác; ông Nguyễn Văn Trân và Văn Tiến Dũng
được chỉ định bổ sung vào Thành ủy. Con đường đến với
cách mạng từ đời thợ in trở thành người đảng viên cộng
sản và phẩm chất ham học hỏi dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm của người lãnh đạo
cao nhất thành phố được hình thành; rèn luyện
bắt đầu từ cuộc đời người thợ suốt 9 năm làm báo cho
các chủ in (1931-1939) đầy cơ cực của kiếp sống nô lệ như thế.
*In báo Giải Phóng
của Xứ ủy Bắc kỳ
Tháng 9
năm 1939, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Chính phủ
Pháp theo phe phát xít khủng bố Đảng cộng sản. Nhiều
tòa soạn báo bị đóng cửa; các ái hữu,
các hội đoàn bị giải tán. Trước tình
hình đó, tháng 9-1939, Xứ ủy Bắc
kỳ quyết định ra báo bí
mật, đặt tên báo là Giải
Phóng, do đồng chí Hoàng Văn Thụ, Bí thư Xứ
ủy phụ trách. Báo in
litô trên đá, một tháng ra một số, 4 trang,
phát hành bí mật 500 bản(1).
Sau một thời gian in báo tại cơ sở ở Cổ Loa, bị Pháp
phát hiện, cơ sở in báo chuyển đến Vạn Phúc, rồi lại
chuyển đến làng Ngọc Trục, xã Đại Mỗ, nay thuộc phường Đại Mỗ,
quận Nam Từ Liêm(2). Vì đã từng
làm nghề in, ông Trân được tổ chức đưa ra
làng này cùng ông Lê Viên
bí mật in báo "Giải
Phóng". Chỉ in được ba số, cơ sở in ấn lại bị lộ do
có người trong làng đi báo với chính quyền
địch rằng: có ổ in giấy bạc giả tại làng! Ngay lập tức, hai
ông bị bắt cùng với các
tang chứng là bàn đá và một số báo
Giải
Phóng(3). Cả hai ông bị giải
về giam ở nhà tù Hà Đông tra khảo; sau
đó tên chánh mật thám Lanèque đưa
ra Sở Mật thám Hà Nội. Lúc đó, nhà
nhà đã chuẩn bị đón Tết Canh Thìn (1940).
Sau vụ mật thám làm dữ, báo Giải Phóng của
Xứ ủy Bắc kỳ cũng ngừng bản(4).
Khoảng tháng 5-1940, thực dân Pháp
xét xử, kết án ông Trân 10 năm tù
khổ sai, sau đó bị đưa lên nhà ngục Sơn La
tháng 7-1940. Ngày
3-8-1943, chi bộ nhà tù Sơn La tổ chức cho ông
và ba đồng chí là: Nguyễn Lương Bằng (Sao Đỏ), Nguyễn
Tuấn Đáng (tức Trần Đăng Ninh), Lưu Đức Hiểu vượt ngục. Sau khi
thoát khỏi nhà tù Sơn La, ông tiếp
tục hoạt động cách mạng cho đến khi cuộc tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945 thành công.
Từ người thợ in báo, ông Nguyễn Văn
Trân đã trưởng thành trong lửa cách mạng,
đòi quyền sống trong dân chủ, độc lập, tự do như thế!
Ths. Phạm Kim
Thanh
(1) Đề tài khoa học của Viện Lịch
sử Đảng, mã số 06 do PTS Trịnh Mưu chủ biên: Sự kiện lịch sử
hoạt động của các Xứ ủy trong thời kỳ đấu tranh giành
chính quyền (1930-1945).
(2) Hồi ký của ông
Đào Duy Kỳ, lưu tại Ban Tuyên giáo Trung ương, viết
về việc in litô báo Giải Phóng, dưới sự chỉ đạo của
Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ Hoàng Văn Thụ, do bị địch đánh phá
nên chuyển từ Cổ Loa sang làng Ngọc Trục, Đại Mỗ.
(3); (4) Trong Hồi ký
Cách
mạng và cuộc đời tôi,
NXB Hà Nội, H. 2011, tr 58, ông Nguyễn Văn Trân
có viết tên báo ông in ở làng Ngọc
Trục và bị địch bắt là Cờ Giải Phóng; tôi
cho rằng có lẽ ông có chút nhầm lẫn.
Vì số 1 của báo Cờ Giải Phóng ra ngày
10-10-1942 tại Thuận Thành, Bắc Ninh do đồng chí Trường Chinh
làm Tổng biên tập, số cuối cùng, số 33, ra
ngày 18-11-1945, trong khi ông Trân đã bị bắt
từ tháng 1-1940. Trong khuôn khổ bài viết
này, có nghiên cứu, đối chiếu, so sánh
các văn bản, tôi bổ sung và sửa sai tên
báo, chính xác là báo Giải
Phóng của Xứ ủy Bắc kỳ.