Sau này, trong sách Quyết tử cho Tổ quốc quyét sinh, ông đã ghi đầy đủ, sáng rõ sự kiện trọng đại này của Thủ đô Hà Nội trong thời đại Hồ Chí Minh: “Ngày 25 tháng 12, sau khi thống nhất ý kiến với đồng chí Hoàng Siêu Hải, Ủy ban kháng chiến Liên khu ra quyết định bổ nhiệm các ban chỉ huy tiểu đoàn 101, 102, 103.
Sau này, trong sách Quyết tử cho Tổ quốc quyét sinh, ông đã ghi đầy đủ, sáng rõ sự kiện trọng đại này của Thủ đô Hà Nội trong thời đại Hồ Chí Minh: “Ngày 25 tháng 12, sau khi thống nhất ý kiến với đồng chí Hoàng Siêu Hải, Ủy ban kháng chiến Liên khu ra quyết định bổ nhiệm các ban chỉ huy tiểu đoàn 101, 102, 103.
- Tiểu đoàn 101:Tiểu đoàn trưởng: Mộng Hùng, nguyên đại đội trưởng Vệ quốc đoàn.
- Tiểu đoàn 102: Tiểu đoàn trưởng: Vũ Yên, nguyên Ủy viên Ban tác chiến Liên khu, cán bộ cấp đại đội của đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu.
- Tiểu đoàn 103: Tiểu đoàn trưởng: Tấn Công (tức Hà Thạch Sùng), nguyên đại đội trưởng Vệ quốc đoàn.
Sau đó, Ủy ban kháng chiến Liên khu đề nghị với Ủy ban Kháng chiến khu XI cho thành lập Trung đoàn lấy tên là Trung đoàn Liên khu I.
Ủy ban kháng chiến khu XI đã đồng ý đề nghị chủ trương thành lập và tên gọi của Trung đoàn; chỉ định đồng chí Hoàng Siêu Hải làm Trung đoàn trưởng đồng chí Lê Trung Toản làm Chính trị viên Trung đoàn.
Việc hợp nhất các lực lượng chiến đấu thành một lực lượng thống nhất đã hoàn thành, tạo điều kiện cho việc thống nhất chỉ đạo và chỉ huy các lực lượng chiến đấu. Sức mạnh chiến đấu của tổ chức vũ trang tăng lên gấp bội. Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến Liên khu phân công đồng chí Hoàng Phương làm tham mưu trưởng Trung đoàn và tham gia Ban chỉ huy Trung đoàn.
Tại phòng họp lớn của Nhà in báo Lao động, số 51 Hàng Bồ, lễ ra mắt của Trung đoàn được tổ chức đúng ngày 6 tháng 1 năm 1947, để vừa kỷ niệm ngày thành lập Đảng (trước đây lấy ngày 6/1), vừa công bố quyết định thành lập Trung đoàn của Ủy ban kháng chiến khu XI. Trong phòng họp treo 2 lá cờ: cờ đỏ búa liềm của Đảng và lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc.
Trước hơn 100 đại biểu của đoàn thể quần chúng, các Ban của Liên khu và ba tiểu đoàn, đồng chí Lê Trung Toản, với danh nghĩa Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu, nói vắn tắt lịch sử ngày thành lập Đảng, công bố quyết định của Ủy ban kháng chiến khu XI về việc thành lập, tên gọi của Trung đoàn và danh sách Ban chỉ huy Trung đoàn; nêu những nhiệm vụ của Trung đoàn phải thực hiện”(5).
Từ ngày lịch sử này, có một chi tiết rất xúc động và cũng rất tự hào: các chiến sĩ tháo sao vuông xuống, gắn lên mũ ngôi sao vàng của anh Bộ đội Cụ Hồ.
Trung đoàn Liên khu I là Trung đoàn đầu tiên của Thủ đô Hà Nội, bao gồm 5.600 người của các lực lượng Vệ quốc đoàn, Tự vệ chiến đấu, Tự vệ xí nghiệp, Công an xung phong, Tự vệ thành, và có đủ cả nam - phụ - lão - ấu đã được tôi luyện và trưởng thành trong khói lửa của cuộc kháng chiến. Đặc biệt, cán bộ chiến sĩ chưa có đồng phục, chỉ có phù hiệu là thống nhất trong toàn Trung đoàn.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi thư ngay cho Trung đoàn: “Tôi báo cho anh chị em biết rằng, nhân dân toàn quốc đang nô nức với cuộc chiến đấu anh dũng của anh chị em. Tấm gương anh chị em cần giữ cho sáng, nêu cho cao, sáng hơn nữa trong lịch sử nước Việt Nam”.
Ngày 13 tháng 1 năm 1947, Ủy ban kháng chiến khu XI gửi điện báo tin “ Hội nghị quân sự toàn quốc họp ngày 12 tháng 1 năm 1947 quyết nghị tặng Trung đoàn đóng giữ Liên khu I là “Trung đoàn Thủ đô”(6).
Sau khi thành lập, Trung đoàn bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt hơn, vì địch chiếm được các cửa ô, hòng bao vậy lực lượng đang ngoan cường chiến đấu giữa lòng thành phố. Ở cương vị của mình, ông Lê Trung Toản đã trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục tuyên truyền, đi đôi với một loạt biện pháp hết sức cần thiết để giải quyết các việc tưởng như nhỏ nhặt trong sinh hoạt, nhưng ảnh hưởng không nhỏ đến sức chiến đấu: Nước giếng là nguồn chính để dùng đã cạn dần; rau tươi rất thiếu, phải lấy đỗ xanh làm giá. Cả Trung đoàn chỉ có gần 1000 khẩu súng trường các loại nhưng đạn và lựu đạn “mỏ vịt”, lựu đạn “lọ mực” ngày càng khan hiếm. Thuốc cứu chữa cho thương binh ở trạm y tế xá của Trung đoàn do bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết phụ trách, cũng chỉ có bông băng và thuốc sát trùng là chính, không có thuốc gây tê, gây mê, không có dụng cụ mổ xẻ, bác sĩ phải cắt bằng dao, cưa bằng cưa thợ mộc…Trong điều kiện vô cùng khó khăn đó, sức mạnh tinh thần của mỗi cán bộ chiến sĩ Trung đoàn đã trở thành sức mạnh vô song để toàn Trung đoàn trụ vững dưới làn bom đạn hủy diệt của địch. Áo Chiến thắng của Liên khu I kịp thời đưa tin chiến sự trong nước và trong các khu (Hoàn Kiếm, Đông Thành, Đông Kinh Nghĩa Thục, Hồng Hà, Long Biên, Trúc Bạch) và đưa gương chiến đấu dũng cảm, đăng thơ của các chiến sĩ đã có tác dụng to lớn, thống nhất tư tưởng, động viên cổ vũ cán bộ chiến sĩ.
Để bảo toàn lực lượng, Bộ Tổng chỉ huy quyết định lệnh cho Ban chỉ huy Trung đoàn, chọn lựa và để lại 500 người bám trụ chiến đấu; số người ra ngoài sẽ bí mật hòa lẫn vào đường rút công khai của nhân dân và ngoại kiều vào ngày 15-1-1947 (ta và Pháp thỏa thuận, có một ngày ngừng bắn cho nhân dân rút ra); nhưng thực tế, con số lên tới 1.200 người. Ông Lê Trung Toản thay ông Nguyễn Hữu Mai làm Bí thư Liên khu ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến và Chính ủy Trung đoàn.
Trong hoàn cảnh mới, ông Lê Trung Toản nhận thấy cần phải động viên tinh thần của toàn thể Trung đoàn quyết tâm chiến đấu và chiến thắng. Vì thế, Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến Liên khu giao cho các Ban chỉ huy Tiểu đoàn và các Chi bộ tổ chức lễ quyết tử ở các Tiểu đoàn. Ban chỉ huy Trung đoàn phân công các đồng chí trong Ban chỉ huy đến dự lễ quyết tử ở các Tiểu đoàn. Ông đã đến dự lễ quyết tử của Trung đoàn và giao cho Tiểu đoàn 103 làm lễ trọng này. Trong hồi ký, ông như sống lại giờ phút vô cùng linh thiêng: 8 giờ sáng ngày 14 tháng 1 năm 1947, lễ quyết tử được tổ chức trang nghiêm tại rạp hát Tố Như (nay là rạp hát Chuông Vàng Thủ đô) ở phố Hàng Bạc. Bàn thờ Tổ quốc, ảnh Hồ Chủ tịch, lư trầm khói hương nghi ngút, nhiều ngọn bạch lạp lớn được thắp sáng. Trước mặt bàn thờ Tổ quốc là một bàn rộng bày la liệt những bom ba càng, mìn đủ các cỡ, các loại súng, chai xăng cờ-rếp, lựu đạn và các thanh kiếm mã tấu sáng loáng.
Tham dự buổi lễ có đại diện Ban chỉ huy trung đoàn, các trưởng ban, một số cán bộ, nhân viên của trung đoàn, đại đội, ban chỉ huy tiểu đoàn và chi bộ, đại biểu các đoàn thể và các chiến sĩ đã lập nhiều thành tích ở trận Bắc bộ phủ, Bưu điện Bờ Hồ, Sở Thủy Lâm, các đội Tự vệ khu Long Biên cũ nay sáp nhập vào tiểu đoàn 103.
Đồng chí Tiểu đoàn phó Đỗ Hiếu Liêm (Vũ Lăng), sau khi phát vũ khí cho các chiến sĩ, thay mặt ban chỉ huy Tiểu đoàn 103, lên hứa với Ban chỉ huy Trung đoàn các đại biểu và nói với các chiến sĩ: “Hôm nay, theo chỉ thị của Ban chỉ huy Trung đoàn, chúng ta làm lễ khai sinh cho Tiểu đoàn thành Đội quyết tử. Chúng ta thề sống thề chết vì Thủ đô. Giặc Pháp muốn chiếm Thủ đô. Chúng ta sẽ chiến đấu đến cùng cho Thủ đô bất diệt”.
Tiếp đó, bằng những lời lẽ ngắn gọn, đồng chí Lê Trung Toản, thay mặt cho Ủy ban kháng chiến Liên khu và Ban chỉ huy Trung đoàn giải thích chỉ thị của Hồ Chủ tịch, Chính phủ, Bộ Tổng chỉ huy, Ủy ban kháng chiến và Bộ chỉ huy khu XI về kế hoạch thực hiện của Ủy ban kháng chiến Liên khu và ban chỉ huy Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn và giải thích thêm ý nghĩa của tinh thần quyết tử:“Ta thề quyết tử là để nói lên tinh thần không sợ hy sinh trong chiến đấu, trong việc thực hiện mọi nhiệm vụ được giao, không phải lấy cái chết làm hàng đầu, để được nổi danh. Ta thề quyết tử hoàn thành mọi nhiệm vụ trong các cuộc chiến đấu”.
Những tiếng hô vang “Xin thề! Xin thề” với những bàn tay giơ cao vũ khí. Một khí thế lẫm liệt, sôi nổi hưởng ứng lời nói của các đồng chí chỉ huy Trung đoàn và Tiểu đoàn, rồi hát vang bài hát "Đoàn vệ quốc quân" (7)
Lễ quyết tử của Trung đoàn Thủ đô đi vào lịch sử chống ngoại xâm của quân dân Hà Nội, thể hiện tinh thần “Sát thát” trong thời đại Hồ Chí Minh và trở thành biểu tượng của Thủ đô Anh hùng.

Quyết tử quân thề kiên quyết sống chết giữ vững Thủ đô, 12-1946.
Sau khi Hoa kiều, Ấn kiều đã rời khỏi liên khu I ngày 15-1-1947, địch càng xiết chặt vòng vây. Va-luy ra lệnh: “Đừng ngại ngần gì mà không đánh mạnh bằng bom và đại bác! Phải kết thúc sớm đi! Phải làm cho kẻ thù hiểu rõ ưu thế áp đảo của chúng ta”(8). Máy bay dội bom, xe tăng gầm rú phóng đạn, bộ binh theo sau đánh giáp lá cà… Những trận chiến đấu hết sức khốc liệt đã diễn ra ở Sô-va (ngày 6-2), Hàng Thiếc (ngày 7 và 9-2), Đồng Xuân (ngày 14-2). Tối 14-2-1947, Ban chỉ huy Trung đoàn họp cấp tốc báo cáo với Ban chỉ huy mặt trận Hà Nội tình hình cụ thể: Đạn chỉ còn trung bình mỗi khẩu súng 8 viên. Lương thực ăn dè sẻn được 5 ngày. Nếu ở ngoài không tiếp tế vào được thì cuộc chiến đấu sẽ rất khó khăn. Với bản lĩnh của người Chính ủy, trong giờ phút cam go, ông là linh hồn của quyết định quan trọng: động viên cán bộ chiến sĩ rút khỏi Liên khu I để bảo toàn lực lượng. Ông đã ghi trong Hồi ký những sự kiện không bao giờ quên trong đời mình: “Cuộc họp của Ban chỉ huy đã nhanh chóng đi đến nhất trí chủ trương rút quân ra khỏi vòng vây của giặc”(9) Cũng trong đêm 14-2-1947, “Bộ Tổng chỉ huy chỉ thị cho Ban chỉ huy Khu XI phải tổ chức cho Trung đoàn Thủ đô ra ngoài và chuyển lời khen của Bác Hồ: Các chú giam chân địch được một tháng là thắng lợi, đến nay giữ Hà Nội được hai tháng là đại thắng lợi”(10).

Chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô vượt sông Hồng, rút khỏi Hà Nội, 17-2-1947.
Lệnh rút quân của Quân ủy được Bác và Thường vụ phê chuẩn là đêm 17-2-1947(11)
Kế hoạch cho cuộc rút quân khỏi vòng vây của địch đã được tiến hành hết sức khẩn trương, chặt chẽ giữa Bộ Tổng chỉ huy, Ban chỉ huy Khu XI, Ban chỉ huy Trung đoàn. Theo hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Tối 16-2, Trung đoàn điện ra đề nghị cho thuyền đón ở Tàm Xá, đưa qua sông Hồng đến bến Long Tựu”(12). Bộ Tổng chỉ huy cử ông Đào Văn Trường, Tổng tham mưu phó đi đón Trung đoàn(13). Trưa ngày 18-2-1947, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái báo cáo với Tổng chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam: “Cuộc rút lui của Trung đoàn đã thành công trọn vẹn”(14), Về cơ bản, Trung đoàn bộ và đa số cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 101, 102 đã từ Tàm Xá qua sông sang bến Dâu, xã Xuân Canh đêm 17 rạng sáng 18-2. Số còn lại đã qua sông sang bến Dâu an toàn tối 18 rạng sáng 19-2-1947.

Chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô vượt sông Hồng, rút khỏi Hà Nội, sáng 18-2-1947.
Thời gian càng lùi xa, chiến công bám trụ trong lòng thành phố suốt 60 ngày đêm của Trung đoàn Thủ đô càng sáng chói, tiêu biểu cho chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện của một dân tộc có truyền thống bất khuất, yêu chuộng tự do, hoà bình không kẻ thù nào khuất phục nổi. Và ông Lê Trung Toản, người Chính ủy của Trung đoàn, đã gắn bó với các chiến sĩ tự vệ thành Hoàng Diệu từ những ngày cam go đầy thử thách khắc nghiệt sau cách mạng tháng Tám, cùng với tập thể Ban chỉ huy Trung đoàn đã góp phần quan trọng làm nên những kỳ tích như huyền thoại của Trung đoàn Thủ đô. Từ Liên khu I đi vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, ông đã được Đảng giao nhiều trọng trách: Tháng 8/1952, ông được cử làm Phó Bí thư thường trực Thành ủy Hà Nội. Ở trong Ban Chấp hành Đảng bộ nên tháng 8/1954, ông là Đảng ủy viên Đảng ủy tiếp quản do ông Trần Quốc Hoàn làm Bí thư và được phân công phụ trách công tác dân vận. Năm 1955, ông được bầu làm Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. Từ năm 1958, ông chuyển công tác lên các cơ quan Trung ương: Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Nội thương (nay là Bộ Công Thương), Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Phó Trưởng Ban Cải tạo công thương nghiệp tư doanh Trung ương. Với những cống hiến trong sự nghiệp cách mạng, ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng các phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng.
Ông đã về với Tổ tiên ngày 2/11/2017, nhưng tấm gương của người cán bộ cách mạng, Chính ủy đầu tiên của Trung đoàn Thủ đô luôn sáng mãi với những chiến công oanh liệt của Trung đoàn.
Ths. Phạm Kim Thanh
TLTK:
(5), (6), (7) Lê Trung Toản: Quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh, sđd, tr 212-214; 216; 285.
(8) Dẫn theo Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây, NXBQĐND- NXBTN, H.1995, tr 58-59.
(9), (10), (13) Lê Trung Toản: Quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh, sđd, tr 338; 349; 350.
(11), (12), (14) Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây, sđd, tr 63; 64.