Thứ Bảy, 15/03/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

20/07/2017 00:00 2691
Điểm: 5/5 (1 đánh giá)
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lực lượng thanh niên-học sinh-sinh viên Hà Nội luôn luôn là lực lượng xung kích của cách mạng. Thành phố bị quân đội Pháp chiếm đóng từ cuối tháng 2-1947, nhưng nhân dân yêu nước vẫn kháng chiến, đánh địch ngay tại đầu não của chính quyền địch. Ngày 19-5-1948, cờ đỏ sao vàng kiêu hãnh tung bay giữa Tháp Rùa cổ kính. Đó chính là biểu tượng khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lực lượng thanh niên-học sinh-sinh viên Hà Nội luôn luôn là lực lượng xung kích của cách mạng. Thành phố bị quân đội Pháp chiếm đóng từ cuối tháng 2-1947, nhưng nhân dân yêu nước vẫn kháng chiến, đánh địch ngay tại đầu não của chính quyền địch. Ngày 19-5-1948, cờ đỏ sao vàng kiêu hãnh tung bay giữa Tháp Rùa cổ kính. Đó chính là biểu tượng khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.

Ông Nguyễn Sỹ Vân đã cùng ông Nguyễn Văn Khâm và ông Nguyễn Trọng Quang-học sinh của trường Chu Văn An thực hiện cuộc treo cờ, sau đó bị bắt và đi đày ở Khe Tù, Tiên Yên, Quảng Ninh. Ông bị tra tấn đến chết sau cuộc vượt ngục không thành (năm 1948).

Năm 2001, hài cốt của Liệt sỹ Nguyễn Sỹ Vân mới được tìm thấy trong bao nỗi ngậm ngùi, thương xót… Do điều kiện khảo cứu, cần tư liệu chính xác, bài viết này chỉ đề cập về Liệt sỹ Nguyễn Sỹ Vân.

Học sinh kháng chiến trường Chu Văn An

Ngôi nhà của gia đình liệt sỹ Nguyễn Sỹ Vân xưa, nay vẫn ở 50 Hàng Bài, Hà Nội. Tôi đến gặp ông Nguyễn Đình Tân và Nguyễn Đình Giáp, hai em trai của liệt sỹ, sau đó, tra cứu thêm tư liệu để tìm hiểu sự kiện cho tường minh hơn.

Tháng 9-1947, Thành ủy Hà Nội đã được thành lập lại; do đó, tổ chức Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các lực lượng vũ trang (dân quân, du kích, công an) cũng được kiện toàn từ thành phố xuống các cấp cơ sở. Nội thành bị Pháp chiếm đóng, còn ngoại thành được chia thành ba quận 4, 5, 6 để tổ chức các lực lượng kháng chiến.

Thành ủy chủ trương kiên trì gây dựng cơ sở kháng chiến, đẩy mạnh các hoạt động vũ trang, trong đó, đặc biệt coi trọng nội thành. Dưới sự chỉ đạo của Thành ủy và Ty Công an Thành phố, công an quận 6 đã triển khai đường dây vào nội thành, gây dựng được cơ sở mà đối tượng là những người yêu nước đã từng tham gia và ủng hộ Việt Minh trong cách mạng tháng Tám và thanh niên nhiệt tình, hăng hái hoạt động, từ đó, móc nối với thanh niên học sinh trường Chu Văn An.

1

Liệt sỹ Nguyễn Sỹ Vân (1930-1948).

Trong gian nhà chật hẹp, ông Nguyễn Đình Tân kể về anh trai mình: “Tháng 12 năm 1946, anh Vân theo gia đình tản cư về quê ở Đại Từ, huyện Chương Mỹ; cuối năm 1947, gia đình mới theo làn sóng dân hồi cư, trở lại thành phố sinh sống. Ngôi nhà 50 Hàng Bài vốn là nhà của ông chú họ, dược sĩ Nguyễn Đình Hoằng, đã đi tản cư, nhờ cha tôi - cụ Nguyễn Sỹ Quảng trông hộ. Tôi rất nhớ đầu năm 1948, anh Vân vào trường Chu Văn An học tiếp lớp cuối cấp phổ thông cơ sở (lớp Đệ Tứ) để lấy bằng Đíp lôm. Tôi không biết anh Vân tham gia kháng chiến, vì lúc ấy tôi học lớp dưới”.

Tháng 3-1948, Bùi Văn Quý làm Thị trưởng Thành phố, tổ chức lại hệ thống chính quyền ở 34 khu phố nội thành và 5 quận ngoại thành. Các Sở, Ty của của chính quyền tay sai cũng được tổ chức lại. Tiếng súng kháng chiến lại vang lên giữa nội thành. Ngày 10-10-1947, Trương Đình Tri cam tâm làm Việt gian đã phải đền tội, sự kiện này đã tác động mạnh đến tinh thần người dân Hà Nội. Học sinh trường Chu Văn An cũng dần dần hình thành tổ học sinh bí mật, do ông Nguyễn Văn Khâm bắt mối vào trường, và ông Nguyễn Sỹ Vân, Nguyễn Trọng Quang đã sớm trở thành cơ sở của công an quận 6.

Treo cờ đêm 18-5-1948

Từ khi lập Ban cán sự nội thành vào cuối năm 1947 do đồng chí Bí thư Thành ủy Lê Quang Đạo trực tiếp phụ trách đến giữa năm 1948, cơ sở kháng chiến đã phát triển mạnh hơn trước. Phong trào chiến tranh du kích, diệt tề trừ gian sôi nổi ở ngoại thành đã tác động mạnh vào đầu não của địch; đồng thời, nhiều cơ sở kháng chiến đã có ở các nhà máy, xí nghiệp, khu phố, trường học. Và cơ hội hành động đã đến với tổ thanh niên kháng chiến trường Chu Văn An. Công an quận 6 do ông Hồng Hà (tức Quỳ) làm Quận trưởng báo cáo kế hoạch treo cờ ở Tháp Rùa với Ban cán sự nội thành và đã được duyệt. Ông Khâm là tổ trưởng quán xuyến toàn bộ công việc chuẩn bị sẵn cán cờ, lá cờ, nhất là việc bí mật bơi ra hồ sao cho địch không phát hiện được. Tất cả phải chu đáo, kỹ càng, tỉ mỉ, vì bốt Hàng Trống (nay là trụ sở công an quận Hoàn Kiếm) ở gần Bờ Hồ. Đêm 18-5, ông Khâm cảnh giới, hai ông Vân và Quang bơi ra Tháp Rùa làm nhiệm vụ. Sáng hôm sau, bọn địch ở cả bốt Hàng Trống và Tòa Đốc lý mới nhìn thấy lá cờ, chúng tức tốc ra Tháp giật cờ, nhưng nhân dân đã truyền tai nhau: Việt Minh treo cờ ở Tháp Rùa. Cờ đỏ sao vàng tung bay giữa Hồ Gươm, làm cho nhân dân nức lòng, phấn chấn, tin tưởng bởi sau khi Trung đoàn Thủ đô rút ra khỏi thành phố, đến tháng 5-1948 là hơn một năm. Với việc treo cờ, lực lượng kháng chiến đã “ra mắt” dân chúng. Sau cuộc diệt Trương Đình Tri ở cổng Đục (10-10-1954), đây là hành động thứ hai gây tiếng vang lớn. Lá cờ đỏ sao vàng trên Tháp Rùa đã vẫy gọi nhân dân hướng về Chính phủ kháng chiến.

Ông Tân kể tiếp: “Tôi hồi ấy còn bé, anh Vân không cho theo; nhưng kỷ niệm thì không quên được. Tôi nhớ, sáng hôm sau, anh Vân về nhà, lại thấy mặc quần áo anh Khâm, mẹ tôi hỏi tối qua đi đâu không về nhà, anh ấy nói tối qua con đi xem phim. Không ai biết, chỉ mấy ngày sau, tai họa giáng xuống gia đình tôi”.

Và câu chuyện tìm được hài cốt liệt sỹ Nguyễn Sỹ Vân

Trong gia đình ông Nguyễn Đình Tân, bố đi làm công chức ở Hỏa xa Gia Lâm, mẹ bán hàng chè nước ở 52 Hàng Bài, không ai biết ông Nguyễn Sỹ Vân đi treo cờ đêm ấy, cho đến khi ông bị bắt chiều 25-5-1948, tất cả bàng hoàng. Ông Tân chỉ ra con ngõ nhỏ: “Đấy, chiều 25-5 anh Tân bị bắt ở đúng căn phòng ấy (nay gia đình ông Ngô Song Chí và Ngô Song Ái ở); còn chỗ gia đình tôi đang ở đây, xưa là khu vườn. Tôi nhớ như in chiều ấy, vì trước ngày bị bắt, anh Tân đi lấy giấy căn cước cho bà nội tôi. Bà từ Hải Phòng chuyển lên đây sinh sống với bố mẹ tôi. Khoảng gần 5 giờ chiều 25-5, ô tô của bọn phòng Nhì đến 50 Hàng bài, hỏi: ở đây có ai là Việt Sơn không? Bà chị họ tôi - con gái ông bác Nguyễn Sỹ Hoằng trả lời: không có ai là Sơn. Nó hỏi tiếp: Có ai học trường Chu Văn An không?

Lúc đó, chỉ có các anh chị em tôi và tôi ở nhà. Mẹ tôi đang bán nước chè chén, nghe bà con mách, tất tả chạy về. Nó không khám xét gì, bắt anh Vân đi luôn ra ô tô. Tôi chạy theo, đã thấy anh Khâm ngồi trong đó rồi. Mẹ tôi gào khóc thảm thiết”.

Địch đưa ông Khâm và ông Vân về hầm đá Cửa Đông tra tấn. Ông Tân nói rành rẽ: “Gia đình tôi tiếp tế cho anh Vân thông qua ông “Bếp” của bọn phòng Nhì ở Cửa Đông, vì chúng không cho gia đình vào gặp. Sau một thời gian ngắn ở hầm đá Cửa Đông, chúng đưa anh sang Hỏa Lò, lập án, rồi đày đi Khe Tù, Tiên Yên lao động khổ sai, làm đường cho chúng. Tôi cũng nói rõ rằng, mãi những năm gần đây, tôi mới biết anh Khâm và anh Quang không bị đày đi Khe Tù như anh Vân mà từ Hỏa Lò bị chúng chuyển đi và bị bắn ở Phùng”(1)

Hỏi về những sự việc tiếp sau, ông Tân kể tiếp: “Năm 1952, ông Trần Hiền (sau giải phóng Thủ đô về Sở Công an), có báo cho chị gái tôi-chị Lan, biết: Anh Sỹ Vân vượt ngục nhưng bị chúng bắt lại, tra tấn đến chết ở trại giam Khe Tù, Tiên Yên ngày 7-11 (âm lịch) năm 1948(2). (Sau này, gia đình tôi lấy ngày này là ngày làm giỗ Anh). Thật đau xót, nhưng lúc ấy còn kháng chiến, gia đình cũng không ra viếng anh được. Sau hòa bình, với sự giúp đỡ chí công vô tư của ông Trần Hiền, anh tôi được công nhận là Liệt sỹ vào ngày 15-6-1960. Nhiều lần dò tìm hài cốt anh tôi không được, tôi rất khổ tâm. Năm 2000, tôi lại quyết tâm đi tìm hài cốt anh trai. Với sự giúp đỡ chí tình của Ngành công an, nhất là anh Nguyễn Đức Minh, nguyên Phó Tổng cục trưởng-Tổng cục Xây dựng Lực lượng Bộ Công an và Ban liên lạc Học sinh kháng chiến Hà Nội như anh Trịnh Văn Bảo, Đào Bá Giáp, tháng 7-2001, chúng tôi đã tìm thấy nơi anh tôi hy sinh ở Khe Tù-Tiên Yên. Tháng 10-2001, gia đình cùng các tổ chức liên quan đưa hài cốt anh tôi về làm lễ truy điệu tại phường Hàng Bài rồi về quê cha đất tổ. Trên đường đi, xe tang đã dừng ở Hàng Khay-Lê Thái Tổ để gia đình và bạn bè, đồng chí tưởng nhớ lại việc làm anh dũng của anh tôi năm xưa”.

Cuộc treo cờ ngày 19-5-1948 giữa hồ Hoàn Kiếm và hành trình gian nan đi tìm hài cốt liệt sỹ Nguyễn Sỹ Vân, tiếp đến liệt sỹ Nguyễn Trọng Quang là một sự kiện nổi bật trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Hà Nội. Chính vì thế, mỗi chúng ta càng phải biết quý trọng giá trị của hòa bình-độc lập-tự do.

Ths. Phạm Kim Thanh

Ghi chú:

(1) Về ông Nguyễn Trọng Quang, Thiếu tướng Nguyễn Đức Minh cho tôi biết: Sau vụ ông Quang vẽ cờ lên tường ở hầm đá Cửa Đông, địch đưa ông Quang, ông Khâm và hai người nữa lên Phùng rồi bắn chết. Ông Khâm đã được công nhận là liệt sỹ cùng ông Nguyễn Sỹ Vân năm 1960. Ông Nguyễn Trọng Quang, sinh năm 1930, vốn nhà ở 12 Bát Đàn, học sinh kháng chiến trường Chu Van An, cùng hoạt động và ở trong nhóm treo cờ với ông Nguyễn Sỹ Vân, được công nhận là liệt sĩ năm 2009.

(2) Về việc bị đày ra Tiên Yên và vụ trốn trại giam, Thiếu tướng Nguyễn Đức Minh bị tù giam cùng ông Nguyễn Sỹ Vân đã thêm thông tin: Đầu tháng 11-1948, chúng tôi bàn nhau trốn trại, nhưng không thuộc địa hình nên bị bắt trở lại và bị tra tấn tàn khốc; bị bỏ đói 3 ngày. Anh Sỹ Vân đã bị đánh đến chết trong đợt này. Như vậy, ngày liệt sỹ hy sinh, hai nguồn thông tin cũng khác nhau, chúng tôi đưa vào bài để bạn đọc bổ cứu.

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Nhà văn, nhà viết kịch Hoàng Công Khanh (1922-2010)

Nhà văn, nhà viết kịch Hoàng Công Khanh (1922-2010)

  • 08/07/2019 14:36
  • 4956

Duyên nghiệp sử sách cho tôi nhiều dịp may hiếm có, ví như bỗng một ngày, tôi được gặp nhà văn, nhà viết kịch Hoàng Công Khanh ở tọa đàm về cuộc đấu tranh của những người yêu nước và cộng sản ở nhà tù Sơn La do cụ Nguyễn Văn Trân tổ chức vào hè năm 2007. Không thể hình dung được ông nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng, dáng cao manh mảnh, đôi mắt tinh anh, lại đã từng bị tù ở Sơn La cùng với bí thư chi bộ nhà tù Trần Huy Liệu.

Bài viết khác

Những kỷ vật của Liệt sỹ Hoàng Trung Hùng

Những kỷ vật của Liệt sỹ Hoàng Trung Hùng

  • 19/07/2017 00:00
  • 2088

Liệt sỹ Hoàng Trung Hùng-người thanh niên Thủ đô Hà Nội đã chiến đấu hy sinh trên đất bạn Lào vào ngày 21/6/1965. Những kỷ vật thiêng liêng này - Hành trang Anh đã mang theo mình trong suốt những năm tháng chiến đấu ác liệt tại chiến trường Hạ Lào. Trận chiến đấu của anh và tổ trinh sát xảy ra vào những ngày mùa mưa của tháng 5 năm 1965 tại huyện Áp Xa Văn Thoong, tỉnh Xa Va Na Khẹt.