Hà Nội là mảnh đất nghìn năm văn hiến, nơi lưu dấu ấn những thăng trầm của dân tộc. Nửa cuối thế kỷ XIX, khi dấu chân xâm lăng người Pháp đến Hà Nội, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và sau đó là Tổng đốc Hoàng Diệu đã được triều đình giao nhiệm vụ giữ thành Hà Nội.
Hà Nội là mảnh đất nghìn năm văn hiến, nơi lưu dấu ấn những thăng trầm của dân tộc. Nửa cuối thế kỷ XIX, khi dấu chân xâm lăng người Pháp đến Hà Nội, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và sau đó là Tổng đốc Hoàng Diệu đã được triều đình giao nhiệm vụ giữ thành Hà Nội.
Song đó là cuộc chiến không cân sức giữa quân đội Pháp và quân đội triều Nguyễn, kết quả thành mất, người cũng tuẫn tiết theo thành. Mặc dù không được như mong muốn, nhưng sự hi sinh của hai ông là động lực cỗ vũ, trở thành biểu tượng cho tinh thần chống Pháp của người Hà Nội.
Võ tướng Nguyễn Tri Phương là người đã dành cả đời trong công cuộc giữ yên bời cõi và chống ngoại xâm trải qua ba đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Năm 1873, đại úy thủy quân Francis Garnier đem 180 quân ra Hà Nội, lấy cớ giúp thương nghị sự tranh cãi giữa tay lái buôn Jean Dupuis và chính quyền nhà Nguyễn ở Bắc kỳ. Trên giấy tờ, Garnier có lệnh điều tra tình hình tranh cãi giữa Dupuis và triều đình nhà Nguyễn ở Bắc Kỳ, trục xuất Dupuis khỏi Bắc kỳ sau khi đã thu xếp bồi thường thiệt hại cho Dupuis. Tuy nhiên khi ra đến Hà Nội, Garnier đã hợp binh với Dupuis để lên kế hoạch đánh thành Hà Nội.
Việc đầu tiên Francis Garnier tới gặp Nguyễn Tri Phương, yêu cầu ông phải mở cửa sông Hồng cho người phương Tây thông thương, tuy nhiên đã bị Nguyễn Tri Phương từ chối. Trước thái độ cứng rắn của ông, ngày 19/11/1873, Francis Garnier ra tối hậu thư yêu cầu Nguyễn Tri Phương phải giải trừ vũ trang trong thành, cho Jean Dupuis được thông thương tự do và bỏ lệnh cấm người Việt Nam không được liên lạc với Pháp.
Vì Nguyễn Tri Phương không trả lời tối hậu thư, nên sáng sớm ngày 20/11/1873 Francis Garnier ra lệnh cho quân của Jean Dupuis đánh vào cửa Đông và cửa Bắc, còn quân của hắn thì đánh vào cửa Đông Nam, Tây Nam và Tây, bản thân hắn trực tiếp chỉ huy đánh cửa Đông Nam thành Hà Nội. Bị đánh bất ngờ, Nguyễn Tri Phương vội ra lệnh cho quân sĩ chiến đấu. Bản thân ông trực tiếp chỉ huy ở cửa Đông Nam, đúng cửa mà đích thân Garniertới đánh.
Cuộc chiến đấu không cân sức, giặc tràn vào, Nguyễn Tri Phương bị thương nặng, con của ông là Đô úy Nguyễn Lâm cùng với Hiệp quản Trần Văn Cát và Suất đội Ngô Triều vẫn xông ra và hi sinh tại trận. Khi giặc vào thành, Nguyễn Tri Phương không chịu để cho giặc băng bó. Người Pháp muốn chạy chữa cho ông nhưng bị từ chối, đến phút cuối ông đã nhờ tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo chỉnh tề và ung dung nói: “Nghĩa tôi là phải chết”, rồi ra đi một cách bình thản. Một nhà ba người cùng tự nguyện đi đánh giặc Pháp cứu nước và cùng hi sinh. Anh em, cha con Nguyễn Tri Phương là những người tận trung muôn thuở. Tấm gương của Nguyễn Tri Phương được Hoàng Diệu – người giữ thành kế nhiệm nhắc lại “Lòng cô trung thề với cô thành/ Chết mong theo Nguyễn Tri Phương dưới đất”. Sau cái chết của ông, ngọn lửa kháng chiến của nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục bùng cháy dưới sự chỉ huy của các sĩ phu, văn thân yêu nước. Ngày 21/12/1873 Garnier rơi vào trận địa phục kích, Francis Garnier cùng một số sĩ quan bị giết chết tại trận.
Tượng thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu trên vọng lâu Cửa Bắc.
Năm 1882, Pháp quay trở lại tấn công xâm lược Hà Nội lần thứ 2. Một lần nữa họ lại đụng phải tinh thần kháng chiến của quân dân Hà Nội, đứng đầu là Tổng đốc Hoàng Diệu. Ngay từ khi đặt chân đến Hà Nội, Hoàng Diệu đã có thao dượt quân sĩ, tổ chức phòng thủ chặt chẽ, xây dựng công sự chiến đấu, đưa ra kế hoạch bảo vệ Hà Nội và vùng trung châu, đồng thời xin triều đình tăng viện, nhưng triều đình đã làm ngơ. Ông ra lệnh cho người nước ngoài muốn vào thành Hà Nội phải xin phép chính quyền Việt Nam. Nhân dân Hà Nội nhiệt liệt đồng tình và hưởng ứng thái độ của Hoàng Diệu. Lệnh bất hợp tác với địch được nghiêm chỉnh thi hành. Quân pháp rơi vào tình thế ngày càng khó khăn. Các giếng nước uống bị bỏ thuốc độc, kho thuốc súng của chúng trên bờ nhiều lần bị đốt cháy tình hình đó buộc chúng phải yêu cầu chi viện.
Ngày 26/03/1882, Đại tá Henry Rivière chỉ huy hơn 600 lính Pháp và 3 pháo hạm tiến quân theo đường sông Hồng để tiến đánh Hà Nội. Sáng 25/4/1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu, đòi ông phải giao thành cho chúng. Đến 10 giờ, quân Pháp bắt đầu nổ súng. Lúc đó, Hoàng Diệu mặc dầu đang ốm vẫn cùng tuần phủ Hoàng Hữu Xứng dẫn đầu tướng sĩ xông lên mặt thành đánh giặc. Ông cho đóng chặt cửa Đông và cửa Bắc để dồn quân vào giữ cửa Nam và cửa Tây. Đến khi quân Pháp xông lên mặt thành thì một cuộc ác chiến nổ ra. Một viên hiệp quản bắn chết một sĩ quan Pháp được Hoàng Diệu thưởng tại trận 30 lạng bạc khiến cho quân sĩ càng nức lòng. Trận chiến tiếp diễn đến 11 giờ trưa thì kho thuốc súng trong thành nổ tung làm cho tinh thần quân sĩ hoang mang. Thừa lúc rối ren, quân Pháp dồn lực lượng đánh cửa thành phía Tây và phía Bắc. Giặc ùa vào bên trong, quân ta tan rã.
Trước tình thế ấy, Hoàng Diệu quay về dinh, mặc triều phục chỉnh tề, vào hành cung bái vọng mà khóc “Sức thần đã hết rồi” và thảo một tờ biểu gửi vua Tự Đức: “Thần là một kẻ thư sinh biết đâu việc binh bị mà bệ hạ giao cho chức vụ quá trọng. Làm sao tin được lòng giặc nên thần lo sửa soạn đề phòng. Việc chưa xong thì binh Pháp kéo đến… Một mình thề với Long thành, nguyện theo Nguyễn Tri Phương nơi suối vàng vậy”. Sau đó, để bảo toàn khí tiết, ông đến bên cây đa trước cửa Võ miếu thắt cổ đúng vào giờ Ngọ, ngày mùng 8 tháng Ba năm Nhâm Ngọ (25-4-1882)
Được tin Hoàng Diệu tuẫn tiết, nhân dân Hà Nội vô cùng thương tiếc. Ngay hôm sau, dân tập trung và rước quan tài của Hoàng Diệu an táng tại khu vườn dinh Đốc học (nay là phố Trần Quý Cáp, sau ga Hà Nội). Trong lễ tang, các sĩ phu ở Hà Nội có bài điếu:
“...Cô thành chống giữ một mình thôi
Khảng khái như ông được mấy người
Cựu lục nghìn năm gương tiết dọi
Cô thần một chút tấm trung phơi....”
Ca ngợi khí tiết của vị Tổng đốc anh hùng, một vị túc Nho tại Hà Nội đã soạn bài Hà Thành chí khí ca. Ông được người dân Hà Nội thờ tại miếu Trung Liệt, bên gò Đống Đa. Còn vua Tự Đức, ngay sau khi nhận được di biểu của Hoàng Diệu, đã ra lệnh chỉ dụ khen ngợi và sai các quan tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Nam Định lo việc chuyển mộ ông về quê hương Quảng Nam vào mùa thu năm đó. Em trai Hoàng Diệu là Hoàng Chấn, khi đó đang làm Tri phủ Xuân Trường (Nam Định) đi theo hộ vệ quan tài. Vua Tự Đức sai quan tỉnh Quảng Nam ban một tuần tế, lại cấp 1.000 quan tiền nuôi mẹ của Hoàng Diệu.
Tấm gương bất diệt của Hoàng Diệu và tinh thần chiến đấu dũng cảm, sáng tạo của quân dân Hà Nội chính là tiền đề cho những cao trào cách mạng trong thế kỷ XX ở Hà Nội và toàn quốc kháng chiến. Năm 1946, 63 năm sau ngày tuẫn tiết của Hoàng Diệu, thực dân Pháp một lần nữa đánh chiếm Hà Nội. Thanh niên thủ đô với tinh thần Hoàng Diệu cảm tử cho tổ quốc quyết sinh, đem xương máu bảo vệ Hà Nội, bảo vệ tổ quốc.
Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu, tuy không sinh ra ở Hà Nội nhưng lại tận nghĩa vì Hà Nội. Để tưởng nhớ công lao của hai ông, chính quyền thủ đô Hà Nội quyết định lấy tên hai ông đặt tên cho hai con đường ở Trung tâm Hà Nội. Ngày 20-12-2003, thành phố Hà Nội cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu trên vọng lâu cửa Bắc.
Thu Nhuần (tổng hợp)
Nguồn:
1.GS. Vũ Khiêu, “Danh nhân Thăng Long Hà Nội”, Nxb. Hà Nội, 2004.
2.Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục, 2001.