Đường lối Đổi mới được đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã đánh dấu bước ngoặt cơ bản, có tính quyết định trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam.
Đường lối Đổi mới được đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã đánh dấu bước ngoặt cơ bản, có tính quyết định trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam.
30 năm qua, Đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt, vị thế của đất nước, kinh tế tăng trưởng, xã hội ngày càng trở nên năng động và có bước chuyển mình kỳ diệu. Quá trình Đổi mới ở Việt Nam được khởi xướng bởi những người có tầm nhìn “đi trước thời gian”, muốn "xé rào”, thoát khỏi thói quan liêu và tư duy bảo thủ tưởng chừng nhưăn sâu, bám rễ ở Việt Nam. Một những người người tiên phong trong hành trình đổi mới đất nước đó không ai khác chính là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc - Kim Ngọc.
Cố Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Ngọc (1917-1979)
Kim Ngọc tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh 10 tháng 10 năm 1917, trong một gia đình nông dân nghèo tại thôn Đại Nội, xã Bình Định, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1940, Ông tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương và làm liên lạc cho một số đồng chí trong Xứ ủy Bắc kỳ. Tháng 8/1945, Ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở Vĩnh Yên. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Kim Ngọc được Đảng phân công giữ nhiều cương vị công tác khác nhau: Huyện ủy viên và Bí thư Huyện ủy Tam Dương, tháng 10/1946; Năm 1947, là Tỉnh ủy viên phụ trách các huyện Tam Dương, Lập Thạch; Năm 1948, phụ trách Nông hội của tỉnh Vĩnh Yên. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Vĩnh Yên, ông được điều về làm Bí thư Huyện ủy Bình Xuyên (1949); Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (3/1952) kiêm chính trị viên Tỉnh đội. Hòa bình lập lại, tháng 10/1955, Ông được điều động sang quân đội và giữ chức vụ Khu ủy viên Khu ủy Việt Bắc, Phó Chính ủy Quân khu Việt Bắc, Cục phó Cục Động viên và Dân quân của Bộ Tổng Tham mưu, Chính ủy Cục Nông binh thuộc Bộ Quốc phòng. Tháng 1/1959, Ông trở về làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đến tháng 1/1968. Từ tháng 2/1968, khi Vĩnh Phúc và Phú Thọ sáp nhập thành Vĩnh Phú, ông là Bí Thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú đến tháng 4/1977. Từ tháng 4/1977, ông về nghỉ hưu. Ông mất ngày 26/5/1979.
Xuất thân trong một gia đình bần nông, có tinh thần yêu nước, Kim Ngọc hiểu rõ những tâm tư, nguyện vọng của người nông dân, điều đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách, tư duy và khát vọng trong cuộc đời hoạt động, công tác của Ông. Trong gần 40 năm (1939-1977) tham gia cách mạng, nhất là từ khi giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy, Kim Ngọc đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đổi mới, sáng tạo, có nhiều chủ trương “đi trước thời gian”. Tiêu biểu là chủ trương “Khoán hộ” với Nghị quyết 68-NQ/TU ngày 10/9/1966 của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc “Về một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong hợp tác xã hiện nay”. "Khoán hộ" chính là những đóng góp quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, là một trong những cơ sở để Đảng ta sau này đề ra Chỉ thị 100 (ngày 13/01/1981) và Nghị quyết số 10 (ngày 5/4/1988) đã làm thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của cả nước, đưa Việt Nam từ chỗ phải nhập khẩu lương thực trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Đồng chí Kim Ngọc - Bí thư Tỉnh ủy chỉ đạo sản xuất nông nghiệp tại xã Lãng Công, huyện Sông Lô.
Ngược trở lại giữa những năm 60 của thế kỷ XX, 20 năm trước thời điểm đất nước Đổi mới, trên cương vị là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, trong bộn bề công việc, Kim Ngọc vẫn luôn dành 1/3 thời gian làm việc của mình để đi cơ sở. Những người cùng thời không hiếm khi gặp ông xắn quần lội ruộng hay cùng nhặt cỏ, chuyện trò với bà con nông dân. Ông luôn trăn trở về tình hình sản xuất nông nghiệp và cuộc sống của người nông dân và tự hỏi tại sao người nông dân lại không mặn mà với đồng ruộng, cái mà họ mất bao xương máu mới giành lại được. Tại sao vẫn đồng đất ấy, vẫn con người ấy, không có thiên tai mà sản lượng lúa sụt giảm.
Sự sâu sát đời sống thực tiễn giúp người Bí thư Tỉnh ủy sớm nhận ra những bất ổn trong quan hệ sản xuất nông nghiệp theo mô hình hợp tác xã. Đó là tác phong, thời gian làm việc của các xã viên theo kiểu “đánh trống ghi tên”, làm ít, tán chuyện nhiều, làm cầm chừng, cốt sao có nhiều công điểm. Ruộng lúa “chó chạy hở đuôi”, xung quanh thì tốt, ở giữa thì xấu; xã viên đứng trên bờ bón phân, làm cỏ chỉ làm xung quanh bờ, ở giữa bỏ lại cỏ tốt hơn lúa. Nhổ mạ cho gia đình thì không được đứt rễ nhưng nhổ mạ cho hợp tác xã thì đứt rễ cũng chẳng sao vì chỉ cần có nhiều bó là có nhiều công điểm. Tư liệu sản xuất thì không giữ gìn cẩn thận, vì là của chung, của tập thể “cha chung không ai khóc”. Các đội trưởng đội sản xuất làm ít nhưng công điểm lại nhiều… Từ đó đã gây bất bình trong các hộ xã viên, nhiều HTX sau khi ăn chia người lao động chỉ được 2 đến 3 lạng thóc/1công.
Mùa qua mùa, sự đối nghịch giữa những khoảng ruộng nhỏ bé 5% được giao cho người nông dân làm chủ luôn tốt xanh mơn mởn trong khi 95% ruộng đất, những thửa ruộng chung mênh mông của hợp tác xã luôn xác xơ vàng vọt vì người nông dân chỉ là kẻ làm thuê ăn công điểm, Kim Ngọc hiểu rằng cần phải trả lại quyền làm chủ ruộng đất cho người nông dân, gắn thành quả và quyền lợi của người lao động mới tạo được động lực thực sự để phát triển sản xuất, mới có thể làm chuyển biến tình hình sản xuất nông nghiệp của tỉnh.
Trên cơ sở những suy ngẫm chiêm nghiệm cá nhân và kết quả việc thí điểm cải tiến quản lý HTX với nội dung khoán đến hộ gia đình xã viên tại một số hợp tác xã trong tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1963 đến 1965 và kết quả khoán thí điểm ở 3 xã của huyện Vĩnh Tường vụ Đông Xuân 1965-1966, ngày 10/9/1966, dưới sự chủ trì của đồng chí Kim Ngọc, Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TU mang tên “Về một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong hợp tác xã hiện nay”. Cốt lõi của Nghị quyết là đổi mới cơ chế quản lý trong HTX nông nghiệp, nhằm
tạo ra động lực mới trong sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân và đáp ứng yêu cầu đóng góp của địa phương đối với nhà nước ngày càng cao lúc đó. Nghị quyết đã nhận định con người là yếu tố quyết định thắng lợi của tiến trình sản xuất, nếu được tin cậy, được giao quyền tự chủ, sáng tạo: “Lao động là một trong ba điều kiện cơ bản để tiến hành sản xuất, là vốn quí không thể thiếu được. Điều kiện cơ bản quyết định nhất để tăng năng suất lao động là con người lao động có kỹ thuật, sử dụng được thành thạo công cụ sản xuất tiên tiến”.
Nghị quyết này đề ra phương thức quản lý sản xuất của hợp tác xã với nhiều cách khoán như: a) Khoán cho hộ làm một khâu hoặc nhiều khâu sản xuất trong một thời gian dài. b) Khoán cho hộ các khâu dài ngày hoặc suốt vụ. c) Khoán sản lượng cho hộ, cho nhóm. d) Khoán trắng ruộng đất cho hộ. Trong đó hình thức khoán gọn đơn giản, dễ tính toán nên được nông dân hưởng ứng rầm rộ và đã thành phong trào quần chúng rộng rãi trong toàn tỉnh Vĩnh Phúc. Thực chất của cách khoán này là trao ruộng đất trở về cho từng hộ nông dân quản lý, sản xuất, coi hộ nông dân là đơn vị cơ bản của sản xuất nông nghiệp.
Kết quả đáng mừng là chỉ trong 2 năm thực hiện “khoán hộ”, năng xuất nông nghiệp ở Vĩnh Phúc tăng vọt. Đời sống của đại bộ phận nhân dân trong tỉnh đã cải thiện rõ rệt, chứng tỏ Nghị quyết “Khoán hộ” ấy hợp lòng dân và đã nhanh chóng đi vào đời sống thực tiễn. Nghị quyết số 68 còn gọi là bản Nghị quyết ba khoán của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc - nghị quyết lịch sử được người nông dân Vĩnh Phúc coi như một thang thuốc “cải tử hoàn sinh” của mình đã được thai nghén, ra đời từ đòi hỏi của thực tiễn cùng những trăn trở của Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc. Tuy nhiên giữa bối cảnh cả nước đang đẩy mạnh phong trào Hợp tác hóa nông nghiệp thì nghị quyết tâm huyết, dũng cảm, táo bạo, dám công khai thay đổi cả một kiểu tư duy và phương thức quản lý đã thành nguyên tắc, điều lệ ấy của Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc là một hướng đi đơn lẻ, đầy mạo hiểm đối với sinh mệnh chính trị của Ông.
Ngày 6-11-1968, tại Hội nghị cán bộ tỉnh Vĩnh Phú, chủ trương “khoán hộ” đã bị phê phán hết sức nặng nề với kết luận: “Việc khoán ruộng cho hộ đã dẫn đến hậu quả tai hại là phát triển tư tưởng tự tư tự lợi, làm phai nhạt ý thức tập thể của xã viên, thủ tiêu phong trào thi đua yêu nước trong hợp tác xã. Kìm hãm và đẩy lùi cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp; giảm nhẹ vai trò của lao động tập thể xã hội chủ nghĩa, phục hồi và phát triển lối làm ăn riêng lẻ, đẩy hợp tác xã sản xuất nông nghiệp vào con đường thoái hóa và tan rã”. “Bằng cách giao khoán ruộng đất của hợp tác cho hộ, trong một số hợp tác xã đang diễn ra tình trạng chia lại ruộng đất… Bằng cách khoán sản lượng cho hộ, một số hợp tác xã đã biến mình thành người phát canh thu tô đối với xã viên…Trong nhiều hợp tác xã, phương thức sản xuất cá thể đang lấn át phương thức sản xuất tập thể…” (Trích tài liệu lưu trữ của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phúc).
Ngày 12/12/1968, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri số 224-T/TW “Về chấn chỉnh công tác ba khoán và quản lý ruộng đất của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở một số địa phương”. Khoán hộ bị coi là buông lỏng quản lý, khoán trắng ruộng đất, khoán trồng trọt, khoán chăn nuôi, khoán cả công cụ sản xuất cho hộ dẫn đến tư hữu hoá tư liệu sản xuất, “trái với đường lối hợp tác hoá nông nghiệp của Đảng”, phá vỡ nguyên tắc quản lý XHCN, phục hồi kinh tế cá thể…Trên cơ sở những kết luận và nhận định đó, chủ trương “khoán hộ” của Vĩnh Phú bị chính thức đình chỉ vào cuối năm 1968, Bí thư Tỉnh uỷ Kim Ngọc bị buộc phải kiểm điểm và thừa nhận là “có sai lầm nghiêm trọng trong chủ trương khoán hộ”.
Tuy bị buộc phải chấp hành tổ chức kỷ luật của Đảng, công khai thừa nhận là “sai lầm nghiêm trọng” về chủ trương khoán hộ nhưng ông Kim Ngọc vẫn dũng cảm bảo lưu chủ trương của mình và trong gần mười năm sau đó khi còn giữ cương vị Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, ông vẫn không ngần ngại bênh vực và cổ vũ cho chủ trương mà ông cho là ích nước lợi dân và không hề xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội này. Ông vẫn luôn rằng tin đó là con đường đúng đắn mang lại no ấm cho người dân và tâm sự với các đồng chí thân thiết của mình: “Phải tìm mọi cách duy trì cho được “khoán hộ” chứ để quay lại kiểu làm ăn theo tiếng kẻng, rong công phóng điểm thì chết đói hết”. Và trên thực tế, tuy bị cấm đoán, nhưng do lợi ích hiển nhiên và to lớn của nó, “khoán hộ”, vẫn được nhiều hợp tác xã ở Vĩnh Phú tiếp tục âm thầm thực hiện nên này còn gọi là “khoán chui”. Và không chỉ ở Vĩnh Phú, "khoán chui" lan nhanh sang Hà Sơn Bình, Hải Phòng, Thanh Hóa, Thái Bình, khắp cả miền Bắc và đến cả một số tỉnh miền Nam như Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Hậu Giang...
Lịch sử đã kiểm chứng niềm tin của cố Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc. "Khoán hộ" từ Nghị quyết 68 của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã trở thành cơ sở lí luận và thực tiễn để Chỉ thị 100 (1981) của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết 10 (1988) của Bộ Chính trị ra đời, chính thức xác định "hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ" và cho thực hiện khoán hộ trong toàn bộ nền nông nghiệp, tạo nên một bước phát triển kỳ diệu của nông nghiệp Việt Nam, thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn Việt Nam.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc (10/10/1917-10/10/1017) cũng là thời điểm mà công cuộc đổi mới đất nước đã đi được một chặng đường hơn 30 năm với những thành tựu, đổi thay ấn tượng được bạn bè thế giới ghi nhận, chúng ta lại càng nhớ và biết ơn Ông - người Cộng sản đi tiên phong trong hành trình đổi mới của đất nước. Cuộc đời vì nước vì dân, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc sẽ luôn đem lại nhiều bài học thiết thực nóng hổi cũng như nguồn cảm hứng lớn lao, bền vững cho sự nghiệp đổi mới phát triển của đất nước và sự nghiệp xây dựng chính đốn Đảng hôm nay và tương lai.
Mai Thủy