Năm 1996, tôi đã biết Đại tá Nguyễn Thị Bích Thuận, nguyên Phó Cục trưởng cục cảnh vệ, người được vinh dự dịch mật mã bức điện mật của Bác chúc Tết Trung đoàn Thủ đô Xuân Đinh Hợi (1947) và tôi vẫn lưu giữ bài “Một kỷ niệm không thể nào quên” bà viết tay; trong đó, khẳng định bà dịch mật mã thư của Bác gửi Trung đoàn Thủ đô.
Nhưng còn câu chuyện bà tham gia Phụ nữ Cứu quốc Hoàng Diệu và khâu cờ đỏ sao vàng thì chỉ khi đến gặp bà tại khu tập thể của cán bộ Trung ương Đảng trên phố Đội Cấn, nghe bà mở kho chuyện cổ tích, tôi mới được biết nhiều điều kỳ diệu trong thực tiễn cách mạng
Xin gia tiên vải phủ trên ngai bàn thờ để khâu cờ đỏ sao vàng
Ngày ấy, bà Bích Thuận mới 23 xuân xanh mà đã dám làm việc trọng đại như thế. Bà kể: “Tôi sinh năm 1922 ở làng nhỏ Lãng Yên, phía nam kinh thành Thăng Long, giờ là phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng. Cha tôi học trường Kỹ nghệ Thực hành rồi ra làm công chức ở ngành Bưu điện nên tôi cũng có điều kiện học đến trung học ở trường nữ sinh Đồng Khánh. Đỗ đíp- lôm, đi dạy học, nhưng mắt thấy tai nghe bao cảnh đời nô lệ đau xót, tôi đã tìm đến với cách mạng qua mối quan hệ với chị Hà Giang, lúc đó đang hoạt động trong Phụ nữ Cứu quốc Hoàng Diệu (PNCQHD). Tháng 10/1944, tôi tham gia PNCQHD, bắt đầu hoạt động ở cả Yên Lãng, Thanh Nhàn, Bạch Mai…và cuốn đi trong các hoạt động sôi nổi của phụ nữ: tổ chức đọc sách báo, vận động nhân dân mua tín phiếu Việt Minh. Tháng 4-1945, tôi ra cả Mễ Trì dự mít tinh của Thanh niên Tuyên truyền Xung phong thành Hoàng Diệu và phụ nữ kết hợp với nhau cùng tổ chức”. Đây là cuộc mít tinh công khai gây tiếng vang lớn cả nội - ngoại thành và lan ra vùng Hà Đông giáp với Hà Nội. Chị em quen nếp nữ công gia chánh, quanh quẩn ở gia đình, đã tự tin vào sức mình khi tham gia diễn thuyết, tổ chức mít tinh trước quần chúng.
Bà Nguyễn Thị Bích Thuận, nguyên Phó Cục trưởng cục cảnh vệ - người khâu cờ đỏ sao vàng treo trên đỉnh Tháp Rùa Hà Nội, đêm 1/7/1945.
Tháng 7/1945, Hà Nội sục sôi trong cao trào tiền khởi nghĩa. Đồng chí Trần Ngọc Minh, cán bộ Ban Công vận Thành ủy giao nhiệm vụ cho đồng chí Bùi Hồng Việt, Bí thư chi bộ Công nhân Cứu quốc (CNCQ) phố Lò Đúc nhiệm vụ tổ chức treo cờ trên đỉnh Tháp Rùa đúng vào ngày chính phủ Trần Trọng Kim treo cờ quẻ ly. Bốn người của tổ CNCQ là đồng chí Hoàng Hải, Bùi Đình Lợi, Hoàng Duy Thành, Lê Hoàng do đồng chí Hải làm tổ trưởng nhận nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc này. Nhưng kiếm vải đỏ ở đâu? May thay, đồng chí Lê Hoàng thân với em trai bà Bích Thuận là Nguyễn Văn Quý - nên đã đến vận động bà may cờ. Bà Bích Thuận kể tiếp: Tôi nhận lời anh Hoàng ngay, mặc dù tôi chỉ biết anh Hoàng qua em trai tôi; nhưng tôi cảm nhận chắc anh đang hoạt động trong tổ chức khác của Việt Minh (sau này tôi mới được biết anh ở trong tổ chức CNCQ Lò Đúc). Sợ ra chợ mua vải đỏ sẽ dễ bị lộ, tôi suy nghĩ rồi quyết định giấu gia đình, sẽ khâu cờ bằng mảnh vải đỏ phủ trên bàn thờ gia tiên. Tôi tin khi cha tôi biết, chắc cũng sẽ đồng ý với việc tôi đang làm. Tôi bí mật cắt khổ vải khoảng 40cm x50cm để khâu cờ; phần vải còn lại, tôi đặt trên ngai thờ. Còn ngôi sao, do không tìm được vải vàng, nên chúng tôi phải sơn năm cánh sao vào vải đỏ. Lá cờ treo trên đỉnh Tháp Rùa đêm 1/7/1945 tung bay đến tận 10 giờ sáng 2/7, bọn địch mới loay hoay gỡ xuống. Tôi cũng phấn khởi tự hào vì mình đã góp phần nhỏ bé vào sự kiện gây tiếng vang giữa trung tâm thành phố có tác động lớn đến các tầng lớp nhân dân đang sục sôi đấu tranh, muốn vùng lên giành chính quyền
Được gặp Bác trong những ngày xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân
Chiều 19/8, hoà trong sóng người đi giành chính quyền, bà Bích Thuận từ quảng trường Nhà Hát Lớn đi theo hướng chiếm trại Bảo An Binh (ở Hàng Bài). Ngay trong chiều ấy, bà được lệnh đưa một số chị em PNCQ đến Ty Liêm Phóng (nay là Sở Công an Thành phố) nhận nhiệm vụ “chị nuôi”. Sau đó, đồng chí Trần Quốc Hoàn điều động bà trở lại làm điện thoại viên ở Sở Bưu điện Bờ Hồ để nắm hơn 40 chị em nữ ở đây, đảm bảo liên lạc thông suốt của Trung ương Đảng và Chính phủ. Tháng 3/1946, bà được kết nạp vào Đảng ở 51 Hàng Bồ. “Lễ kết nạp đơn giản lắm. Trong căn phòng nhỏ chỉ có hai chiến ghế đẩu. Anh Hoàng Tùng và chị Hoàng Ngân làm lễ kết nạp tôi vào Đảng. Tôi nhớ nhất anh Hoàng Tùng đọc điều lệ Đảng rồi dặn tôi: Kỷ luật của Đảng là kỷ luật sắt. Và tôi tự nhủ mình, cứ làm tốt mọi nhiệm vụ sẽ không bị kỷ luật. Hồi ấy, chúng tôi hiểu Đảng và 5 bước công tác còn đơn sơ lắm, nhưng nhiệt tình và lý tưởng cách mạng thì luôn được hình ảnh Bác gần gũi, giản dị sáng soi”.
Câu chuyện hai lần gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng nhiều kỷ niệm sâu sắc, bà kể: “Lần thứ nhất vào dịp Tết Bính Tuất; tôi là cán bộ PNCQHD ở khu Bạch Mai đi cùng với đoàn cán bộ của thành phố đồng chí Hoàng Tùng dẫn đầu vào chúc Tết Bác ở Bắc Bộ phủ. Bác rất gầy, chỉ có đôi mắt sáng rỡ, nhìn chúng tôi hiền từ. Tôi và chị Hải Phương đều muốn đứng bên Bác chụp ảnh. Tôi nhìn Bác chăm chú, nhớ ra đã thấy ảnh Bác in trong sách Parti Communist Indochinois. Sách do Sở Mật thám Pháp in để nghiên cứu và tìm hiểu Đảng Cộng sản Đông Dương; tình cờ sau ngày Nhật đảo chính Pháp, có một người bạn cho tôi xem, nhưng lúc ấy, tôi đâu biết đó là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tết Bính Tuất là một dấu mốc sâu sắc trong cuộc đời tôi, khi tôi được chúc Tết Người.
Lần thứ hai, tháng 3/1946, tôi lại được gặp Bác bất ngờ đến thăm Sở Bưu điện Bờ Hồ. Người vào thẳng phòng điện thoại ngay đầu giờ làm việc, theo sau là ông chủ sự Sở Bưu điện Bờ Hồ Nguyễn Văn Hùng và hai đồng chí Hoàng Hữu Kháng, Vũ Kỳ. Tôi ngồi ở bảng 3 gần cửa ra vào nên thấy ngay Bác đến, nhưng không dám mạnh dạn đứng dậy chào Bác; cứ nhìn Người mà tay vẫn phải nối đường dây. Bác dừng ở đầu phòng, lặng lẽ quan sát các điện thoại viên thao tác nhịp nhàng, chính xác, đảm bảo mạng thông tin từ Thủ đô Hà Nội đi toàn quốc. Bác không muốn sự có mặt của Bác ảnh hưởng đến công việc đang chạy đều của chúng tôi. Chính sự tôn trọng của Bác đã khiến tôi và chị em cảm động, tin tưởng, khâm phục Người. Sau đó, tôi được biết Bác đã nói chuyện với một số viên chức của Sở, động viên anh em khắc phục khó khăn, làm việc đúng giờ, thực hiện cần kiệm, xây dựng chính quyền cách mạng”
Năm 1946, bà Bích Thuận được Thành Hội PNCQHD phân công phụ trách phụ nữ cứu quốc Liên khu II với các tổ Quán Sứ, Chợ Hôm, Bạch Mai, Bà Triệu, Lò Đúc. Cách mạng không chỉ đổi đời cho chị em lao động nghèo khổ mà còn mang lại ánh sáng văn hoá, xây dựng đời sống mới, quyên góp, ủng hộ tiền, vàng cho chỉnh phủ. Tháng 11/1946, bà lại được điều động về cơ quan Thường vụ Xứ uỷ Bắc kỳ do đồng chí Trần Quốc Hoàn phụ trách để làm nhiệm vụ mã hoá và dịch mã các bức điện mật của Trung ương. Do đó, trong cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Thủ đô mở đầu toàn quốc kháng chiến, công việc mã hoá và dịch mã đã cho bà vinh dự lớn lao: bà là người dịch bức mật mã của Bác chúc Tết Trung đoàn Thủ đô xuân Đinh Hợi (1947). Mỗi dòng thư Bác không chỉ là tình cảm ấp áp, sự quan tâm sâu sắc, động viên thăm hỏi các chiến sĩ Trung đoàn mà còn thể hiện quyết tâm kháng chiến của toàn dân tộc. Dòng chữ nổi tiếng trong thư đã trở thành biểu tượng thiêng liêng, cao quý, tự hào của Hà Nội anh hùng trong 60 ngày khói lửa chống thực dân Pháp xâm lược: “Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Bà nói: Tôi đã dịch bức điện của Bác trong niềm xúc động trào dâng. Dịch xong, tôi cẩn thận kiểm tra lại và đưa tận tay anh Trần Quốc Hoàn cả bản điện gốc và bản điện dịch. Đó là một tờ giấy viết tay nho nhỏ, nhưng tôi vẫn nhớ như in từng từ trong nội dung bức điện”.
Tượng đài “Quyết tử để tổ quốc quyết sinh” tại vườn hoa Hàng Đậu (Hà Nội) ghi dấu chiến công anh hùng của quân dân Thủ đô chiến đấu chống Pháp cuối năm 1946.
Hôm nay và mai sau, dòng chữ bất hủ đó của Người mãi mãi soi rọi cho lớp lớp con dân đất Việt bảo vệ từng tấc đất của ông cha.
Những kỷ niệm sâu sắc trong những tháng năm được gần gũi phục vụ Bác, nghe Bác dạy những lời ân cần, khắc sâu trong lòng bà. Tôi nhìn các hiện vật và một số bức ảnh quý giá của gia đình trên chiến khu Việt Bắc mà bà còn giữ được, dừng lại xem kỹ bức ảnh Bác gày gò, miệng ngậm điếu thuốc, đang cho con gái bà - chị Minh Thu ăn xôi trên Việt Bắc năm 1951 mà nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Năng An đã chụp được, cảm nhận hạnh phúc lớn lao của bà và người bạn đời, người đồng chí thân yêu – ông Lê Văn Lương, chính là hình ảnh Bác kính yêu giản dị và lý tưởng cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do mà bà đã tự nguyện suốt đời dâng hiến, và cho đến hôm nay, bà luôn luôn tự hào về con đường mình đã chọn từ những ngày hoạt động bí mật, khâu cờ đỏ sao vàng trong cách mạng tháng Tám ở Thủ đô Hà Nội.
Ths. Phạm Kim Thanh