Chủ Nhật, 16/02/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

30/06/2014 17:55 5903
Điểm: 5/5 (1 đánh giá)
Trong giới sử học khi nói đến Giáo sư, nhà sử học Đào Duy Anh thì ai cũng biết, ông là người có công rất lớn trong việc góp phần xây dựng nền sử học nước nhà. Ở ông nổi bật đó chính là tinh thần tự học, tự nghiên cứu, là lòng hăng say tích lũy tri thức, không ngừng bổ sung cập nhật, là ý thức tìm tòi, khám phá trong học thuật. Ông là người đã góp phần đào tạo ra một thế hệ những nhà sử học uyên bác, ông xứng đáng là cây đại thụ của nền sử học hiện đại nước nhà.

Giáo sư Đào Duy Anh sinh năm 1904 tại Thanh Hóa, mất năm 1988 tại Hà Nội. Năm 1923, ông tốt nghiệp Thành chung (cấp 3) tại Trường Quốc Học Huế, không chấp nhận làm công chức cho chính quyền thực dân, ông đã chọn làm nghề thầy giáo dạy Trường Tiểu học Đồng Hới (Quảng Bình). Giữa lúc đó, phong trào yêu nước đang diễn ra sôi nổi với những phong trào như: Tiếng bom Sa Điện (tại Quảng Châu, Trung Quốc) của Phạm Hồng Thái năm 1924; phong trào đấu tranh đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu năm 1925; đám tang cụ Phan Chu Trinh năm 1926; cùng với những hoạt động báo chí, xuất bản tiến bộ đã thu hút sự quan tâm của ông. Năm 1926, ông từ chức giáo học, vào Đà Nẵng và có ý định vào Sài Gòn sống tại những trung tâm văn hóa, chính trị để “thoát chốn ao tù”, tìm đến “nơi trời cao biển rộng” để có điều kiện “mở mang trí thức” và tiếp xúc với những hoạt động yêu nước.

Giáo sư Đào Duy Anh (1904-1988)

Trên đường Nam tiến, đến Đà Nẵng ông gặp cụ Huỳnh Thúc Kháng, Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Hai người cùng nhau ra Huế và sáng lập tờ báo Tiếng Dân (Cơ quan ngôn luận đầu tiên, đại diện cho tiếng nói nhân dân miền Trung), Đào Duy Anh giữ chức thư ký tòa soạn. Cuối mùa hè năm 1926, ông tham gia Việt Nam Cách mạng Đảng, sau đổi tên thành Tân Việt Cách mạng Đảng (7/1928) và trở thành Tổng bí thư của Đảng. Cũng trong năm 1928 ông sáng lập ra “Quan hải tùng thư” (một cơ quan xuất bản của Tân Việt Cách mạng Đảng). Cùng với những nhà trí thức cấp tiến, Quan hải tùng thư đã cho xuất bản nhiều tác phẩm, trong đó có những tác phẩm có giá trị do Đào Duy Anh biên soạn và phỏng dịch như: “Lịch sử ra đời học thuyết kinh tế”, “Phụ nữ vận động”, “Lịch sử nhân loại”, “Tôn giáo là gi?”, “Xã hội là gì?”, “Dân tộc là gì?”.

Cùng với chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng, GS. Đào Duy Anh sáng lập tờ báo Tiếng Dân (Cơ quan ngôn luận đầu tiên, đại diện cho tiếng nói nhân dân miền Trung) năm 1926.

Tháng 7/1929, Đào Duy Anh bị chính quyền thực dân bắt, cho đến đầu năm 1930 ông mới được ra tù. Sau khi ra tù ông đã dừng hoạt động chính trị và chuyển sang hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, sự kiện này được xem như là một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời của Giáo sư Đào Duy Anh.

Lĩnh vực văn hóa khoa học đầu tiên Đào Duy Anh quan tâm là Từ điển học. Ông đã hoàn thành và xuất bản hai bộ từ điển là “Hán - Việt từ điển” (1932) và “Pháp - Việt từ điển” (1936). Đây là những công cụ tra cứu rất hữu ích thời bấy giờ, đồng thời còn là cầu nối, xóa bỏ khoảng cách thế hệ đặc biệt là về ngôn ngữ, tạo ra tiếng nói chung giữa lớp người già theo Nho học và người trẻ theo Tây học.

Từ năm 1938, ông chuyển sang lĩnh vực văn hóa, văn học. Những công trình nghiên cứu đã xuất bản là là “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938), “Khổng giáo phê bình tiểu luật” (1938), “Trung Hoa sử cương” (1942), “khảo luận về Kim Vân Kiều” (1943). Tác phẩm “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh cùng với tác phẩm “Văn minh An Nam” của Nguyễn Văn Huyên là những công trình khoa học đặt nền tảng cho sự hình thành nền văn hóa học hiện đại Việt Nam trên tinh thần khoa học và dân tộc.

Bộ “Hán - Việt từ điển” (40.000 từ) do Giáo sư Đào Duy Anh biên soạn lúc mới 28 tuổi năm 1932

Lĩnh vực khoa học mà Đào Duy Anh dốc nhiều tâm sức nhất đó là khoa học lịch sử, đặc biệt là Cổ sử Việt Nam, ông coi lịch sử là phương diện tốt nhất để thức tỉnh hồn nước, đặc biệt là để nhận diện ở tầm học thuật vấn đề bức thiết khẳng định vị thế của Việt Nam trong nền sử học khu vực và thế giới.

Sau cách mạng tháng 8/1945, Giáo sư Đào Duy Anh được mời giảng dạy môn lịch sử tại Đại học Văn khoa Hà Nội, cùng với các trường đại học và cao đẳng khác. Năm 1946 ông là Ủy viên Ban vận động Đại hội văn hóa cứu quốc, trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động trong chi Hội văn nghệ Liên khu IV. Năm 1950, ông được mời ra Việt Bắc làm Trưởng Ban Sử - Địa thuộc Vụ Văn học Nghệ thuật, Bộ Giáo dục. Năm 1952, về Thanh Hóa giảng dạy tại Trường Dự bị Đại học. Sau khi hòa bình được lập lại, ông trở về Hà Nội giảng dạy tại trường Đại học Sư Phạm và Đại học Văn khoa. Năm 1956, khi trường đại học Tổng hợp được thành lập, ông được cử làm chủ nhiệm bộ môn Cổ sử Việt Nam.

Trong thời gian công tác ở khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp cho đến năm 1958, chỉ trong hơn 2 năm nhưng đây là thời gian Giáo sư Đào Duy Anh tập trung hết cả tâm lực vào lĩnh vực sử học và đạt được những hiệu quả cao nhất. Hai bộ giáo trình “Lịch sử Việt Nam” (1956) và “Cổ sử Việt Nam” (1956) đã được xuất bản. Ngay sau đó, ông lại bổ sung và viết thành “Lịch sử cổ đại Việt Nam” (1957) gồm 4 tập: “Nguồn gốc dân tộc Việt Nam”, “Vấn đề An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc”, “Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt”, “Giai đoạn quá độ sang chế độ phong kiến”. Trong những năm 1957 - 1958, ông cho xuất bản cuốn “Vấn đề hình thành dân tộc Việt Nam” và viết lại “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX” .

Năm 1958, Giáo sư Dào Duy Anh chuyển sang Bộ Giáo dục, đến năm 1960 chuyển sang công tác tại Viện Sử học. Trong khoảng thời gian này ông thôi công tác giảng dạy, mà chuyển sang công tác hiệu đính và chú giải nhiều bộ sách quý đã được dịch ra tiếng Việt như: “Lịch triều hiến chương loại chí”, “Đại Nam thực lục”, “Phủ Biên tạp lục”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Đại Nam nhất thống chí”, “Binh thư yếu lược và Hổ trướng Khu cơ”, “Gia Định thành thông chí”, “Nguyễn Trãi toàn tập”. Sau khi nghỉ hưu 1965, ông biên soạn một số công trình như “Đất nước Việt Nam qua các đời” (1964), “Từ điển truyện Kiều” (viết xong 1965, xuất bản 1974), “Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo và diễn biến” (1975), dịch và chú giải “Khóa hư lục” (1974), “Sở từ” (1974), “truyện Hoa Tiên” (1978), “Thơ chữ Hán Nguyễn Du” (1988).

Không chỉ dừng lại ở đó, Giáo sư Đào Duy Anh đã góp một phần to lớn vào việc đào tạo đội ngũ các nhà nghiên cứu sử học hiện nay. Giáo sư Hà Văn Tấn, một trong những học trò của Giáo sư Đào Duy Anh đã viết “Ông dạy chúng tôi bằng tấm gương lao động nghiêm túc của ông. Vì ông là một bác học, ông muốn chúng tôi cũng hiểu biết thật nhiều. Và do đó, ông buộc chúng tôi phải học thật nhiều. Ông là người đã khuyên chúng tôi học tiếng Nga và các cổ ngữ Phương Đông. Ông đã nói “không hiểu văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ, các anh không thể nào hiểu đầy đủ văn hóa Việt Nam”. Ông thường đặt yêu cầu rất cao đối với các học trò của mình”.

GS. Đào Duy Anh – Một tên tuổi lớn trong các nhà bách khoa toàn thư hiện đại” (theo đánh giá của Từ điển bách khoa Larousse,Pháp năm 1968)

Có thể nói, với những công trình nghiên cứu khoa học, với lòng say mê, nhiệt huyết của mình, Giáo sư Đào Duy Anh đã trở thành một “chiến sĩ” anh dũng trên mặt trận nghiên cứu khoa học xã hội. Những đóng góp của ông cho hậu thế là một khối “tài sản” khổng lồ và vô giá. Ông chính là “tượng đài” cho lớp lớp thế hệ những nhà nghiên cứu khoa học xã hội noi theo.

Thu Nhuần (tổng hợp)

Nguồn:

  1. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (chủ biên), “Từ điển nhân vật lịch sử”, nxb Giáo dục, 2005.
  2. “Giáo sư Đào Duy Anh - nhà sử học và văn hóa lớn”, bài viết của Giáo sư Phan Huy Lê in trong cuốn “100 chân dung một thế kỷ Đại học Quốc gia” (http://ussh.vnu.edu.vn/gs-dao-duy-anh-nha-su-hoc-va-van-hoa-lon/2763).
  3. “Trí thức Việt Nam xưa và nay”, nxb Văn hóa Thông tin, 2006
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Nhà văn, nhà viết kịch Hoàng Công Khanh (1922-2010)

Nhà văn, nhà viết kịch Hoàng Công Khanh (1922-2010)

  • 08/07/2019 14:36
  • 4837

Duyên nghiệp sử sách cho tôi nhiều dịp may hiếm có, ví như bỗng một ngày, tôi được gặp nhà văn, nhà viết kịch Hoàng Công Khanh ở tọa đàm về cuộc đấu tranh của những người yêu nước và cộng sản ở nhà tù Sơn La do cụ Nguyễn Văn Trân tổ chức vào hè năm 2007. Không thể hình dung được ông nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng, dáng cao manh mảnh, đôi mắt tinh anh, lại đã từng bị tù ở Sơn La cùng với bí thư chi bộ nhà tù Trần Huy Liệu.

Bài viết khác

Luật sư Phan Anh (1912-1990)

Luật sư Phan Anh (1912-1990)

  • 25/06/2014 08:04
  • 4504

Phan Anh là một Luật sư nổi tiếng, nhà chính trị, Bộ trưởng Bộ Thanh niên của đế quốc Việt Nam và là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.