Phan Anh là một Luật sư nổi tiếng, nhà chính trị, Bộ trưởng Bộ Thanh niên của đế quốc Việt Nam và là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ông sinh ngày 1-3-1912 tại xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu nước. Phan Anh đã lớn lên trong khí thế sục sôi của dân tộc chống lại ách áp bức của thực dân, đế quốc nửa đầu thế kỷ 20. Tuy nhà rất nghèo, sống cực khổ lại mồ côi mẹ từ năm 10 tuổi, nhưng được sự dạy dỗ công phu và nghiêm khắc của người cha - ông đồ Phan Điện, Phan Anh sau khi trải qua mọi vất vả, theo cha lang bạt khắp nơi dần dần nổi tiếng khắp Bắc Kỳ về trí thông minh và tài dùi mài kinh sử. Năm 1926, ông giành được suất học bổng nội trú của trường Bưởi, Hà Nội.

Luật sư Phan Anh (1912-1990).
Sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông theo học ngành Luật tại Trường Đại học Đông Dương, Hà Nội. Trong thời gian theo học ở đây, ông tham gia hoạt động chính trị, xã hội, là Chủ tịch Tổng hội Sinh viên. Vừa học, ông vừa tham gia dạy học ở trường Gia Long và trường Thăng Long.
Năm 1937, Phan Anh tốt nghiệp Cử nhân Luật tại Trường Đại học Đông Dương với vị trí thứ hai, chỉ sau một người Pháp, không phải vì kém tài học mà chỉ vì đơn giản ông là dân bản xứ! Năm 1938, Luật sư Phan Anh sang Pháp để trình luận án Tiến sĩ Luật nhưng do Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939), ông đã không kịp bảo vệ học vị Tiến sĩ Luật học. Tuy nhiên, ông cũng không ở lại Pháp để hành nghề như nhiều người bạn Pháp khuyên mà đã trở về Việt Nam với ý thức phụng sự xã hội một cách đúng đắn và đường hoàng theo tinh thần kẻ sĩ truyền thống.
Năm 1940, sau khi về nước, Phan Anh làm thầy cãi ở tòa Thượng Thẩm Hà Nội, tham gia bào chữa cho nhiều chiến sĩ Việt Minh. Ông bộc bạch: “Làm thầy cãi mà có lẽ là duy nhất cãi cho nhiều người yêu nước chống Pháp, tôi biết nhiều chuyện về phong trào Việt Minh. Tôi rất khâm phục tinh thần hiên ngang bất khuất trước quân thù của họ, nên đã cố gắng làm nhiều điều bênh vực những con người chân chính đó”.
Cũng trong năm đó, ông cùng Vũ Đình Hòe, Vũ Văn Hiền thành lập báo Thanh Nghị (1941-1945) với mong muốn đóng góp ý kiến của nhóm ông trước quốc dân. Ông là một trong 5 cây bút trụ cột của báo này, phụ trách nhiều chuyên mục của báo. Tuy là một luật sư nhưng nhờ biết chữ Hán, thông hiểu triết, văn, sử Trung Hoa (cả cổ học và tân học) nên các bài viết của ông rất có giá trị về cả phổ thông và chuyên môn.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9-3-1945, vua Bảo Đại mời ông và một số trí thức trẻ vào Huế để tham khảo ý kiến về việc Nhật “trao trả độc lập” cho Việt Nam và thành lập nội các mới. Sau đó ông được mời giữ chức Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong chính phủ Trần Trọng Kim. Thời gian này, ông có sáng kiến thành lập đoàn Thanh niên Tiền tuyến (còn gọi là Thanh niên Phan Anh, Thanh niên Xã hội). Cùng thời điểm, ông là thành viên của Hội đồng soạn thảo Hiến pháp kiêm thuyết trình viên (theo Dụ số 6 ngày 30 tháng 6 năm 1945) để soạn thảo một Hiến Pháp cho nước Việt Nam mới (Đế quốc Việt Nam).
Sau Cách mạng tháng Tám, Luật sư Phan Anh đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, làm Chủ tịch Ủy ban kiến thiết quốc gia. Sau cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, Luật sư Phan Anh đã được mời làm Bộ trưởng Quốc phòng trong thành phần Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến (thành lập ngày 2/3/1946).
Đến tháng 7 năm 1946, ông được Chính phủ giao chức Tổng thư ký phái đoàn Chính phủ Việt Nam (Trưởng đoàn là Phạm Văn Đồng) đi dự hội nghị Phông-ten-nơ-blô đàm phán với chính phủ Pháp.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, 19-12-1946, ông tham gia kháng chiến chống Pháp suốt 9 năm (1946-1954).
Năm 1947, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế, thành viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao (năm 1949). Tháng 7 năm 1954, ông là phái viên phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Giơnevơ.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng (phải) và Bộ trưởng Bộ Công Thương, Luật sư Phan Anh trong thời gian dự Hội nghị Giơnevơ (1954).
Sau năm 1954, ông liên tục giữ các chức vụ Bộ trưởng Bộ Công thương, Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp (từ tháng 9-1955 đến tháng 4-1958), Bộ trưởng Bộ Ngoại thương (từ tháng 4-1958 đến năm 1976) trong Chính phủ Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam và liên tục là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Sau khi đất nước thống nhất, tại Đại hội I (2-1977) và Đại hội II (5-1983) của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, luật sư lại được cử làm Ủy viên đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tháng 11-1988, tại Đại hội IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ông được bầu làm Phó Chủ tịch đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Luật sư Phan Anh liên tục là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ khóa II tới khóa VIII. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VII (6-1981), ông được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phan Anh còn có những hoạt động quan trọng trong ngành luật pháp nước ta. Ông cùng với Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sáng lập Hội Luật gia Việt Nam, tham gia Ban thường vụ Hội Luật gia quốc tế.
Ông cũng tham gia vào những hoạt động quốc tế. Từ năm 1976 đến năm 1986, ông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam và từ năm 1978 đến khi qua đời, ông là Phó Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, đồng thời là Chủ tịch nhóm Việt Nam trong tổ chức Liên minh quốc hội thế giới (UIP).
Với những cống hiến to lớn đó, Luật sư Phan Anh đã được trao tặng nhiều phần thưởng quý báu như: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất… Ông cũng được Liên Hợp quốc tặng Kỉ niệm chương Bảo vệ hòa bình; Hội đồng hòa bình thế giới tặng Huy chương vàng mang tên Giôliô Quyri…
Như vậy, trong suốt cuộc đời sôi nổi của mình, Luật sư Phan Anh được Đảng và Bác Hồ trao nhiều trọng trách. Nhiệm vụ nào ông cũng tận tâm, tận lực, tận tụy phục vụ đất nước và để lại dấu ấn quan trọng. Phan Anh không phải là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng ông sống, lao động và chiến đấu như một người cộng sản. Trên bất cứ cương vị nào, Luật sư Phan Anh cũng luôn được mọi người kính trọng, quý mến không chỉ vì trí lực xuất chúng mà còn vì nếp sống chân thành, liêm khiết của một người trí thức đích thực.
Lê Khiêm (biên tập)
Nguồn:
- Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh, “Phan Anh (1912-1990)”, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, H.: Giáo dục, 2005, tr.14-16.