Lịch sử luôn cần có một độ lùi thời gian cần thiết để chiêm nghiệm và đánh giá công bằng, xác thực về những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Và khi đã có đủ độ lùi lịch sử thì việc đánh giá sự kiện lịch sử lại cần theo phương pháp tiếp cận thực chứng lịch sử. Tài liệu lưu trữ chính là nguồn thông tin gốc vô cùng quan trọng, là những thực chứng lịch sử trong việc nghiên cứu về lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử Hà Nội nói riêng trong đó có các sự kiện xảy ra từ 1875 đến 1897, thời kỳ thành Hà Nội bị quân đội thực dân Pháp tấn công, chiếm đóng và phá hủy để tiến tới mục đích chính là thôn tính Bắc Kỳ, thôn tính toàn bộ đất nước Việt Nam.
Tài liệu lưu trữ về thành Hà Nội nguyên là tài liệu thuộc phông Đô đốc và các Thống đốc đầu tiên của Nam Kỳ từ 1858 đến 1887 được bảo quản tại Kho của Phủ Thống đốc Nam Kỳ ở Sài Gòn. Gần hai năm sau khi Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương được thành lập theo Nghị định ngày 29-11-1917 của Toàn quyền Đông Dương, ngay từ khi Kho Lưu trữ Trung ương còn chưa được xây dựng[1], vào năm 1919, Giám đốc Paul Boudet đã cho chuyển ra Hà Nội một vài phông đóng (fonds clos), trong đó có những tài liệu nói trên. Đây là những tài liệu cực kỳ có giá trị, phản ánh quá trình xâm lược Việt Nam của quân đội viễn chinh Pháp từ những ngày đầu tiên ở Nam Kỳ, những cuộc thương lượng với triều đình Huế, quá trình “bình định” Bắc Kỳ và những “thử nghiệm” đầu tiên về bộ máy cai trị hành chính của chính quyền thực dân ở Bắc Kỳ…
Trước khi được chuyển ra Hà Nội, tài liệu của phông này hầu như “bị bỏ quên” trong một góc của Phủ Thống đốc Nam Kỳ. Có lúc, vài trong số tài liệu này được “chuyển theo hành lý của các viên Thống đốc mỗi khi họ chuyển đi nhậm chức ở nơi khác”[2]. Vì thế, những tài liệu này đương nhiên còn lại không đầy đủ. Từ sau năm 1930, do tài liệu nộp về Kho Lưu trữ trung ương ngày một nhiều nên Kho gần như hết chỗ chứa. Để giải quyết tình trạng này, Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã cho chuyển về Chính quốc tài liệu của một số phông đóng, trong đó có phông Đô đốc - Thống đốc nói trên. Thời gian đầu, những phông này được bảo quản tại Lưu trữ của Bộ Pháp quốc Hải ngoại ở Paris nhưng sau năm 1966 thì được chuyển về bảo quản tại Lưu trữ Quốc gia hải ngoại ở Aix-en Provence. Phông này ngày nay được sáp nhập với phần lớn phông Phủ Toàn quyền Đông Dương mang từ Việt Nam về theo thoả ước ký kết giữa chính phủ Pháp và chính quyền Bảo Đại năm 1950 thành phông Đô đốc và Toàn quyền Đông Dương (1858-1845). Tuy nhiên, trước khi được chuyển về Chính quốc, một số tài liệu có giá trị đã được Boudet cho sao lại để phục vụ nhu cầu khai thác của các công sở và các nhà nghiên cứu (chủ yếu là người Pháp) ở Đông Dương. Đáng chú ý nhất trong số tài liệu đã được sao lại phải kể đến những tài liệu có liên quan đến hai lần đánh chiếm thành Hà Nội của Pháp vào năm 1873 và 1882, trong đó có hàng loạt tài liệu phản ánh hành động xâm lược với những từ ngữ hết sức ngạo mạn của những sĩ quan trong quân đội viễn chinh Pháp thời kỳ này[3]. Có thể nói rằng, đây là những tài liệu vô giá, bổ sung cho các công trình nghiên cứu về Hà Nội thời kỳ cận đại của các học giả phương Tây đương thời và của các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam ngày nay. Bài 1: CUỘC TẤN CÔNG THÀNH HÀ NỘI LẦN I NĂM 1873
Khung cảnh Hà Nội 1873. Quân Pháp do Francis Garnier và Jean Dupuis cầm đầu đổ bộ quân đánh chiếm thành Hà Nội. Tranh vẽ trên Tạp chí LE TOUR DU MONDE. Ảnh sưu tầm.
Bức tường thành Hà Nội. Ảnh minh họa của André Masson trong “Hanoï pendant la période héroïque (1873-1888)”, Paris, 1929.
Quân Pháp tấn công cửa Đông-Nam thành Hà Nội ngày 20-11-1873. Ảnh minh họa của André Masson trong “Hanoï pendant la période héroïque (1873-1888)”, Paris, 1929. Qua một số công trình và một số sách của các nhà nghiên cứu phương Tây đương thời đã từng được tiếp cận tài liệu của phông Đô đốc - Thống đốc, qua một số tài liệu của cùng phông do tác giả đã nghiên cứu tại Pháp, qua một số tài liệu của triều Nguyễn và các bài vè trong văn học dân gian được phản ánh trong các công trình nghiên cứu của giới sử học Việt Nam, sự kiện Pháp tấn công thành Hà Nội lần I với các lý do và diễn biến sự kiện được phục dựng lại tương đối chi tiết[4]. Năm 1867, sau khi chiếm được Nam Kỳ lục tỉnh, cùng với việc thiết lập hệ thống chính quyền cai trị ở đây, chính quyền Pháp ở Sài Gòn đã coi việc đánh chiếm Hà Nội và một số tỉnh Bắc Kỳ là “một vấn đề sinh tử cho thuộc địa Sài Gòn, vấn đề sống còn cho tương lai của sự thống trị của người Pháp ở Viễn Đông” bởi họ nhìn thấy ở Bắc Kỳ một tiềm năng khai thác lớn, nhất là con đường thương mại qua sông Hồng. Lợi dụng việc “giải quyết vụ lái buôn Jean Dupuis[5] gây ra ở Hà Nội” ngày 11-10-1873, đại úy hải quân Francis Garnier[6] được phái ra Bắc Kỳ, thực chất nhằm “khai thông đường sông Hồng và khai trương cảng Hà Nội”. Ngày 5-11-1873, Garnier tới Hà Nội, đóng quân tại Trường Thi. Ngay hôm sau, Garnier gửi lời hiệu triệu quân lính của mình, nhấn mạnh rằng nhiệm vụ của họ khi ra Hà Nội là “để bảo vệ các lợi ích của nền văn minh và của nước Pháp”. Tuy nhiên, ngay khi đặt chân đến Hà Nội, Garnier đã nhận được thư của Khâm sai Nguyễn Tri Phương[7] bày tỏ thái độ cương quyết trước những hành động gây hấn của Jean Dupuis. Ngày 10-11-1873, Nguyễn Tri Phương cho niêm yết khắp nơi lời hiệu triệu toàn quân, toàn dân Hà Nội chống Pháp trong đó tuyên bố rõ ràng: “Garnier đến đây chỉ để xét xử và đuổi Dupuis đi. Xong việc, ông ta sẽ phải rút lui, vì ông ta không có một thứ quyền nào can thiệp vào công việc của đất nước ta”[8]. Ngày 12-11-1873, Garnier gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương, buộc Ông phải hạ khí giới, giao nộp thành Hà Nội vào ngày 18-11-1873. Ngày 19-11, Garnier gửi tối hậu thư lần II cho Nguyễn Tri Phương, đòi tước toàn bộ vũ khí trong thành, yêu cầu chính quyền các tỉnh Bắc Kỳ phải chấp hành mệnh lệnh của Garnier và cho phép Dupuis được tự do đi tới Vân Nam. Cả hai lần, Nguyễn Tri Phương đều không trả lời mà chỉ tích cực cho quân dân chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Ngày 20-11-1873, thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội.
Chân dung Francis Garnier. Ảnh sưu tầm.
Tượng Francis Garnier tại Sài Gòn. Ảnh sưu tầm.
Đài tưởng niệm có chứa tro cốt của Francis Garnier tại Boulevard Saint Michel (Paris). Trên tấm biển có dòng chữ: “Francis Garnier. Indo-Chine, Mékong, Fleuve Rouge 1838-1873”. Ảnh sưu tầm. Đúng 6h sáng, hai pháo thuyền của Pháp trên sông Hồng là Scorpion[9] và Espingole[10] từ cự ly 1.200m đồng loạt bắn đại bác cỡ lớn vào cửa Tây và cửa Bắc thành Hà Nội. Mặt trận chính được Garnier chọn là đánh chiếm các cửa thành phía nam, đặc biệt là cửa Đông-Nam. Theo phân công, Treintinian cùng Esmez và Garnier tấn công cửa Đông-Nam, còn toán quân của Dupuis chiếm đóng cổng thành phía bắc. Dupuis chỉ huy một toán quân chiếm đóng lầu canh hình bán nguyệt và mở cổng thành còn đội quân đặc nhiệm của Garnier chia thành hai cánh: cánh thứ nhất do trung úy, phó thuyền trưởng Bain de la Coquerie[11], chỉ huy đại đội đổ bộ của tàu Décrès với 30 binh sĩ kèm theo một khẩu pháo lấy từ tàu chiến Decrès kéo tới dàn trận trước cổng thành phía Tây-Nam để nghi binh, giả tấn công vào mặt này nhằm đánh lạc hướng quan binh trong thành. Chi tiết của sự kiện này được phản ánh trong báo cáo của Coquerie gửi Garnier còn được lưu giữ tới ngày nay: Tôi hân hạnh gửi tới Ngài báo cáo về việc tấn công thành Hà Nội tại cửa Tây Nam vào buổi sáng ngày 20-11-1873. Theo lệnh Ngài, chúng tôi khởi hành từ trại[13] vào lúc 5h30 sáng, quân lính đi rất lặng lẽ, liên tục, không có gì gây cản trở cuộc hành quân của chúng tôi. Tới khu nhà bịt kín cạnh cổng Tây Nam, chúng tôi rẽ phải và nằm mai phục dọc theo tường thành (…). Chúng tôi đi vòng theo công sự và pháo binh dàn trận trước cổng thành. Khẩu đại bác 40ly dưới sự chỉ huy của ông Perrin được bố trí đã hạ cầu thứ hai. Nhóm do tôi chỉ huy đã vượt qua cầu thứ nhất (...) Viên hạ sĩ thủy quân Ardeven vượt qua cổng bằng cách bám lấy các then ngang và các thanh gỗ để mở cổng. Chúng tôi cùng nhau xông lên phía trước và bắn vào vài tên lính có trang bị giáo và súng trường. Công sự lập tức bị chiếm, binh lính nấp sau một bức tường nhỏ phía trong công sự, còn những người khác chiếm vũ khí. Khẩu đại bác đi theo chúng tôi bắn vào cổng lớn. Không có tiếng súng bắn trả. Tôi xông lên phía trước cùng với một vài người được bảo vệ bằng một phân đội sẵn sàng bắn vào bất cứ ai xuất hiện trên tường thành. Vào lúc đó, chúng tôi nhận được một loạt đạn từ khẩu đại bác ở phía trái pháo đài. Phát pháo này không hiệu quả, chỉ làm cho một vài hòn đá rơi từ trên cánh cổng xuống. Sau vài cú đại bác, chúng tôi đã bắn thủng nhiều lỗ của cánh cổng. Trong khi một người sẵn sàng bắn vào lỗ cổng, người lính mang súng trường Corven đã chuyển sang phía bên kia cánh cổng và cổng thành đã được mở. Ngay lập tức, chúng tôi chiếm lĩnh cổng thành (…) Tôi cho ngừng bắn và ra hiệu đã thỏa thuận bằng một hiệu kèn”...[14] Trong khi đó, cánh quân thứ hai gồm 27 thủy bộ binh do chuẩn úy Trentinian chỉ huy và một đội thủy quân biệt phái 29 người do phó thuyền trưởng Esmez chỉ huy, cùng với 3 khẩu trọng pháo và 19 binh sĩ trừ bị của tàu Decrès, nhận nhiệm vụ tấn cổng vào thành ở cửa Đông-Nam. Garnier dẫn đầu toán quân thứ hai tấn công mặt Đông-Nam. Quân Pháp dọn xong các chướng ngại vật, băng theo cầu gạch cố định, tiến sát cửa thành và chân tường thành. Thành Hà Nội theo mô tả của Công sứ Pháp ở Hà Nội những năm 1883-1884 là “một pháo đài hình vuông có xây công sự” với hai ụ súng công sự trên mỗi mặt thành. Thành có 5 cửa được bảo vệ bằng những lũy bán nguyệt xây kiên cố làm lối ra vào và có những hào sâu ngập nước bao quanh bốn mặt nhưng “do thói quen chểnh mảng, các quan đã để cho những ngôi nhà và tường bao của vườn tược dựng lên, lấn gần sát tường hào”[15]. Vũ khí bảo vệ thành của quân đội triều Nguyễn được một tác giả phương Tây viết gồm 40 khẩu thần công bằng gang và đồng thau theo kiểu cũ, gắn vào một hốc cố định không di chuyển được, lúc nào cũng chĩa thẳng ra phía trước mà không quay sang hai bên phải, trái được. Chính vì thế nên pháo thủ không những “không có chỗ trú ẩn khi bị tấn công xung kích” mà súng còn không thể “bắn ở tư thế chúc xuống” nên đã “trở thành vô dụng khi những toán quân tấn công trực tiếp ở mé chân thành”. Vì vậy, trong trận chiến ở cửa Đông-Nam, khi lính Pháp băng theo cầu gạch cố định, tiến sát đến cửa thành và chân tường thành thì các khẩu thần công phía trên thành mới khai hỏa nhưng đạn vọt qua đầu toán lính Pháp và rơi xuống phía xa. Lính Pháp dùng rìu bổ vào cổng thành nhưng không được vì cổng bằng gỗ lim, bên trong có khóa nên Garnier đã cử Esmez đưa đại bác lên giữa cầu gạch cách cổng thành vài mét bắn trực tiếp, phá thủng một khoảng trống lớn và dùng súng lục bắn vỡ khóa chốt. Cổng thành bị phá vỡ, toán quân của Garnier tràn vào thành mà chỉ gặp những sức kháng cự yếu ớt không gây thiệt hại nào đáng kể. Đích thân khâm sai Nguyễn Tri Phương đứng trên tháp canh để đốc thúc binh sĩ chống trả đã bị bắn trọng thương ở bụng[16] nhưng chỉ sau một giờ giao chiến, quan binh triều đình tan rã, thành Hà Nội bị quân Pháp chiếm. Ngay buổi chiều cùng ngày 20-11-1873, Garnier cử Coquerie đem quân tiến đánh phủ lỵ Hoà Đức đặt tại làng Dịch Vọng[17], khống chế con đường giao thông huyết mạch từ Sơn Tây về Hà Nội. Chi tiết của sự kiện này cũng được phản ánh trong báo cáo của Coquerie gửi Garnier: “… Theo lệnh Ngài, chúng tôi bắt đầu hành quân từ 3h30 do một người An-nam dẫn đường; vào lúc 5h chúng tôi ở cách đồn lũy 400m. Tôi để lại đằng sau một khẩu đại bác 40ly do ông Perrin chỉ huy, với lệnh nổ súng vào cửa Đông ngay khi nghe thấy tiếng súng trường. Số quân còn lại của đại đội tiếp tục tiến lên phía trước.
Khi thấy cửa Nam có vài phát súng trường bắn vào những tên lính bước ra khỏi thành, khẩu đại bác của ông Perrin đã khai hỏa vào cửa Đông và phá tan khẩu thần công của địch ở đó. Khi không còn thấy một tên lính nào đi ra nữa, tôi cho ngừng bắn và tiến vào trong thành; cả 3 cổng thành đều bị chiếm giữ ngay lập tức. Khẩu đại bác 40ly đã nạp đạn được để lại dưới cửa Nam, ngay chỗ lên cầu.
Sau khi đi xem xét các bức tường thành được vũ trang bằng 9 khẩu pháo các cỡ, tôi quay trở lại ngôi nhà của quan phủ. Ở đây tất cả đều chỉ rõ một sự ra đi vội vàng và vừa xảy ra xong, chỉ cách khoảng 15 phút. Chúng tôi đã tìm thấy con dấu của viên tri phủ. Vũ khí tịch thu được để ở sân của khu vực bị quân Pháp chiếm. Các cuộc tìm kiếm cuối cùng giúp phát hiện ra khoảng 40 quan tiền và một kho chứa từ 200 đến 300 kg gạo. Những công trình còn dang dở ở đây cho biết, người ta đang củng cố đồn binh cho một sự phòng thủ sắp tới”…[18] Cuối thư, Coquerie cho biết quân Pháp rời Phủ Hoài, trở về Hà Nội lúc 7h sáng ngày 23-11-1873.
Các sự kiện trên cho thấy, vì mất tinh thần chiến đấu do biết tin tức về việc Pháp chiếm thành Hà Nội nên quan quân ở phủ Hoài Đức đã để Pháp đánh chiếm phủ lỵ một cách dễ dàng. Kể từ ngày 20-11-1873 định mệnh, sự kiện thành Hà Nội bị tấn công lần I đã mở đầu những trang sử bi thương xen lẫn khí phách hào hùng của thành phố Hà Nội thời cận đại.
Bộ triều phục màu xanh trưng bày trong triển lãm “Indochine - des Territoires et des Hommes” tại Bảo tàng Quân sự Pháp (Mussée de l’Armée) được chú thích là của Khâm sai đại thần Nguyễn Tri Phương do Francis Garnier lấy được trong dịp chiếm thành Hà Nội năm 1873. Ảnh của Đào Thị Diến chụp tại Paris ngày 3-12-2013.
Jean Dupuis với trang phục Mãn Thanh. Ảnh sưu tầm.
Bản đồ Bắc Kỳ do Jean Dupuis vẽ đăng trong cuốn “Khai thông sông Hồng cho thương mại” của Dupuis viết năm 1879. Ảnh sưu tầm.
Tài liệu tham khảo:
1. Tài liệu lưu trữ.
- TTLTQG I, Fonds des Amiraux et des Gouverneurs.
- TTLTQG I, Fonds de la Direction des Archives et des Bibliothèques de l’Indochine (DABI).
2. Sách
- Bonnal R., Au Tonkin: Notes et souvenirs 1872-1881-1886, Édition de la Revue Indochinoise, Hanoi 1925.
- Devillers P., Người Pháp và người An-nam: bạn hay thù? Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2006.
- Masson A., Hanoï pendant la période héroïque (1873-1888), Paris, 1929.
- Officiers de l’Etat Major, Histoire militaire de l’Indochine des débuts à nos jours (janvier 1922). IDEO, Hanoï, 1922.
- Romanet du Caillaud, Histoire de l’intervention française au Tonkin (1872-1874), Paris 1880.
- Taboulet G., La geste française en Indochine, Tome II, Paris, 1956.
- Vial P., Nos premières années au Tonkin, Challamel, Paris 1889.
- Nguyễn Văn Uẩn, Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, tập 1, Nxb Hà Nội, 2010.
- Phan Huy Lê (cb), Lịch sử Thăng Long Hà Nội, tập 2, Nxb Hà Nội, 2012.
[1] Kho Lưu trữ Trung ương bắt đầu khởi công xây dựng năm 1922 và khánh thành vào cuối năm 1924. [2] Rapport de la Direction des Archives au Conseil de Gouvernement (session ordinaire de 1923). TTLTQG I, Fonds de la Direction des Archives et des Bibliothèques de l’Indochine, hs: 71. [3] Số TL này tập trung tại série F của Phông Đô đốc - Thống đốc đang bảo quản tại TTLTQG I. [4] Xem mục sách tham khảo ở phần cuối bài. [5] Jean Dupuis (sử cũ thường phiên âm là Đồ Phổ Nghĩa): sinh ngày 7-12-1828 tại Saint-Just-la-Pendue (Pháp), mất ngày 28-11-1912 tại Monaco, là một nhà thám hiểm và thương nhân người Pháp. Trong khi khám phá vùng sông Hồng cho mục đích thương mại vào năm 1871-1873, Jean Dupuis vướng vào một vụ tranh chấp với các quan lại triều Nguyễn trong thương vụ bán vũ khí để đổi lấy hàng hóa cho quân đội Trung Hoa. Theo lệnh của Thống đốc Nam Kỳ, Francis Garnier đến Bắc Kỳ để hòa giải cuộc tranh chấp, nhưng chính Dupuis lại là người đã tích cực giúp Garnier đánh chiếm thành Hà Nội ngày 20-11-1873, giúp Pháp chinh phục Bắc Kỳ. Năm 1879 Dupuis viết “Khai thông sông Hồng cho thương mại”, trong đó có vẽ bản đồ Bắc Kỳ, bản đồ đầu tiên của vùng này. Năm 1881 Dupuis được Viện Hàn lâm Khoa học Paris trao giải thưởng Delalande Guérineau cho công trạng thám hiểm và hỗ trợ chinh phục Bắc Kỳ. [6] Marie Joseph François (Francis) Garnier (sử cũ thường phiên âm là An Nghiệp hoặc Ngạc Nhi): sinh ngày 25-7-1839 tại Saint Etienne (Pháp), là sĩ quan hải quân đồng thời là một nhà thám hiểm người Pháp; từ năm 1860 đến 1862 tham gia Ban Tham mưu của đô đốc Charner, người chỉ huy cuộc tấn công Nam Kỳ; chỉ huy trận tấn công thành Hà Nội lần I năm 1873, mất ngày 21-12-1873 trong trận chiến với quân Cờ Đen tại Hà Nội. [7] Nguyễn Tri Phương tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đường Xuyên, sinh ngày 21-7 năm Canh Thân (ngày 9-9-1800), quê làng Đường Long (Chí Long), Điền Lộc, Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Xuất thân trong một gia đình làm ruộng và nghề mộc, nhà nghèo lại không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên cơ nghiệp lớn. Ông từng kinh qua hàm Điển bộ (Bí thư ở Nội điện); Tu soạn, Thừa chỉ ở Nội các; Thị độc, Thị giảng học sĩ và Hồng Lô tự khanh dưới thời vua Minh Mạng và một số chức khác dưới thời vua Thiệu Trị, Tự Đức; từng là thống lĩnh quân sự chống Pháp tại các các tỉnh thuộc Nam Kỳ; chỉ huy quân triều đình đánh dẹp giặc cướp trên đất Bắc, được khôi phục nguyên hàm Thái tử Thái bảo Võ hiển điện Đại học sĩ Trí dõng tướng Tráng liệt bá, nhưng vẫn sung Tam tuyên quân thứ Khâm mạng Đại thần vào năm Tự Đức thứ 24 (1871). Trong khi chỉ huy quân lính chống quân Pháp tấn công thành Hà Nội lần I ngày 20-11-1873, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương ở bụng, bị giặc bắt sống nhưng đã tuyệt thực, không hợp tác với Pháp và đã hy sinh ngày 20-12-2073. [8] Devillers Ph., Người Pháp và người An-nam: bạn hay thù? Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 204. [9] Tàu Scorpion từ Sài Gòn ra do Balny chỉ huy. [10] Tàu Espingole từ Hồng Kông đến. [11] Henri Louis Ferdinand Bain de la Coquerie sinh năm 1845 tại Plougoumelen, là con trai duy nhất của dòng họ De la Coquerie vốn có truyền thống binh nghiệp. Bain de la Coquerie bắt đầu binh nghiệp của mình bằng việc tham gia chiến dịch Magenta ở Ý năm 1865; năm 1868, tham gia cuộc thám hiểm sông ngòi ở Nam Kỳ; năm 1870-1871 tham gia chiến dịch ở biển Bắc, biển Baltic trên chiến hạm Bourayne; năm 1872, chỉ huy tàu Lorient cùng Francis Garnier tham gia cuộc tấn công thành Hà Nội lần I năm 1873. Sau khi Garnier bị giết ở Trận Cầu Giấy (1873), Bain de la Coquerie lên tạm quyền và rút tàn quân về cố thủ tại Hà Nội. Năm 1876, ông giao chức chỉ huy quân Pháp ở Hà Nội cho người kế nhiệm rồi đi tham gia chống quân Thanh trên tàu chiến Atalante; năm 1880, chỉ huy pháo binh trên tàu Sovereign; năm 1881, chết tại bệnh viện Toulon (Pháp). [12] Đại úy hải quân Francis Garnier. [13] Trại của lính Pháp đóng ở Trường Thi (khu vực phố Tràng Thi ngày nay), trên một khu đất rộng, có tường và hào bảo vệ. [14] TTLTQG I, Fonds des Amiraux et des Gouverneurs, dossier: 12.467 (bản gốc lưu tại Pháp, bản sao lưu tại TTLTQG I).[15] Bonnal R., Au Tonkin: Notes et souvenirs 1872-1881-1886, Édition de la Revue Indochinoise, Hanoi 1925, tr. 17. [16] Theo báo cáo của Garnier gửi Dupré ngày 1-12-1873 trong Taboulet G., La geste française en Indochine thì Nguyễn Tri Phương bị Garnier phát hiện nhờ nhìn thấy “thấp thoáng những quân lính cầm lọng che cho một vị tướng chỉ huy” trên mặt thành. Nguyễn Tri Phương bị quân Pháp bắt và giam trong thành nhưng Ông đã cự tuyệt mọi sự chăm sóc của Garnier và mất ngày 20-12-1873. [17] Khu vực ngã ba đường Xuân Thủy - Nguyễn Phong Sắc thuộc quận Cầu Giấy ngày nay. [18] Fonds des Amiraux et des Gouverneurs, dossier: 12.467. Tài liệu đã dẫn. TS. Đào Thị Diến