Sau những thắng lợi to lớn của các chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên, Huế - Đà Nẵng đã đánh dấu bước trưởng thành mới và toàn diện của quân đội ta. Các đơn vị bộ độ chủ lực tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm về tổ chức, về chỉ huy tác chiến và về kết hợp binh chủng trong các chiến dịch có quy mô lớn. Thu được thêm nhiều vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật của địch, làm cho sức mạnh chiến đấu của các binh đoàn chủ lực của ta tăng lên. Lực lượng vũ trang địa phương của ta cũng phát triển về cả số lượng và chất lượng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Trong khi đó, quân đội Việt Nam Cộng hòa bị tổn thất nặng về số quân, tiêu hao lớn về vật chất trang bị, giảm sút rất nghiêm trọng về tinh thần chiến đấu. Chúng ra sức tập hợp số tàn quân của các quân đoàn 1 và 2, củng cố các đơn vị của quân đoàn 3 và 4, bố trí lại lực lượng thành nhiều tuyến phòng thủ nhằm ngăn chặn quân ta từ xa như: Tây Ninh, Xuân Lộc, Phan Rang là những khu vực phòng thủ then chốt của địch.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng khi đó đã kịp thời đánh giá tình hình, so sánh về thế lực giữa ta và địch đã có sự chuyển biến vượt bậc rất có lợi cho quân ta. Trong cuộc họp ngày 8 tháng 4 năm 1975 ở căn cứ Tà Thiết (Lộc Ninh), Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định gồm các đồng chí: Văn Tiến Dũng (Tư lệnh); Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn (Phó Tư lệnh); Phạm Hùng (Chính ủy); Lê Ngọc Hiển (Tham mưu trưởng)…Bộ Chính trị khẳng định “Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu, thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm, quyết tâm giải phóng miền Nam”. Tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kỹ thuật và vật chất để giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh tại căn cứ Tà Thiết (Lộc Ninh), tháng 4/1975.
Bộ Tư lệnh tính toán và quyết định tiến công “Ta có năm cánh quân lớn từ năm hướng tiến vào Sài Gòn nên quyết định đánh năm mục tiêu lớn nằm sâu trong tuyến phòng thủ của địch”. Phải đánh nhanh, dứt điểm nhanh, vừa tiêu diệt địch vừa phải bảo vệ dân và bảo vệ cơ sở kinh tế, văn hóa để giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Cách đánh chiếm thành phố là thực hiện chia cắt, bao vây tiêu diệt làm tan dã các sư đoàn của địch phòng thủ ở vòng ngoài, không cho chúng co cụm vào nội thành. Đồng thời đánh chiếm và chốt giữ các cầu lớn để mở đường cho các binh đoàn của ta đột kích, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào năm mục tiêu chủ yếu đã được lựa chọn.
Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 4 năm 1975, các đơn vị chiến dịch nhận nhiệm vụ, mục tiêu trên từng hướng đánh vào Sài Gòn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đến giai đoạn chốt càng thêm quyết liệt với tốc độ nhanh “một ngày bằng 20 năm”
Ngày 26 tháng 4, sau khi chọc thủng tuyến phòng xa của quân đội Mỹ, năm cánh quân của quân đội ta gồm 4 quân đoàn chủ lực và Đoàn 232 cùng với binh khí đã tập kết đầy đủ tại nơi quy định, hình thành thế trận bao vây Sài Gòn. 17 giờ cùng ngày quân ta nổ súng bắt đầu tiến công lớn vào Sài Gòn.
Một trận địa pháo M-46 130mm của ta pháo kích vào hệ thống phòng ngự của địch trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Sau hai ngày đêm chiến đấu, quân đội ta đã phá vỡ các khu vực phòng thủ vòng ngoài của địch, cắt đứt đường số 4, tăng cường vây ép Sài Gòn trên các hướng, bao vây ngăn chặn không cho các sư đoàn chủ lực của địch co cụm về vùng ven và nội thành. Bộ tổng tham mưu và các cơ quan chỉ huy quân đoàn 3 của địch bỏ chạy. Mất chỉ huy về chiến lược, chiến dịch, quân địch càng hoang mang rối loạn. Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố “từ chức” Tổng thống của Chính phủ Việt Nam cộng hòa. Trần Văn Hương vừa lên thay Nguyễn Văn Thiệu làm “Tổng thống” được mấy ngày đã phải tuyên bố nhường chức cho Dương Văn Minh. Sau khi Dương Văn Minh nhận chức “Tổng thống” mới, không biết làm gì hơn là kêu gọi binh lính “không buông vũ khí”, “bảo vệ lãnh thổ”. Con bài chính trị cuối cùng được tung ra quá chậm trễ, hòng ngăn chặn bước tiến của quân ta mong cứu vãn được tình thế.
Lược đồ Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Trong khi đó ở sân bay Tân Sơn Nhất, quân đội của ta đã tập kích bao vây sân bay. Tiếp đó pháo binh của ta giội bão lửa vào sân bay làm tê liệt mọi hoạt động của địch trên sân bay khiến cho cuộc di tản của Mỹ phải chuyển sang bằng máy bay lên thẳng.
Đêm ngày 28 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các cánh quân của ta ở năm hướng tiến công đồng loạt vào Sài Gòn, đồng thời chỉ thị cho các quân khu 8 và 9 ở đồng bằng Nam Bộ phối hợp tiến công giải phóng đồng bằng Nam Bộ.
5 giờ sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, các cánh quân của ta cùng đánh vào các căn cứ phòng ngự của địch để tiến vào nội thành Sài Gòn. Những khẩu hiệu động viên ngắn gọn và thiết thực như: “chậm trễ là có tội với lịch sử”; “thời cơ là mệnh lệnh” của Bộ Chính trị được nêu lên. Tất cả các đơn vị bừng bừng khí thế tiến công, quyết đánh chiếm các mục tiêu được phân công, đồng thời cắm cờ lên dinh Độc Lập.
Hướng Đông (thuộc địa bàn Thủ Đức), Sư đoàn 304 phối hợp với Sư đoàn 325 (Quân đoàn 2) đánh chiếm chi khu Nhơn Trạch, khu kho thành Tuy Hạ, phát triển đến Cát Lái. Trận địa pháo 130 của Quân đoàn 2 đến Nhơn Trạch bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Sân bay Tân Sơn nhất chìm ngập trong lửa đạn, bị tê liệt hoàn toàn. Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) và Sư đoàn 6 bộ binh (Quân khu 7) vòng qua Hố Nai đánh vào Biên Hòa. Hai Trung đoàn bộ binh 141 và 165 (Sư đoàn 7) và các tiểu đoàn xe tăng, pháo cao xạ tiến công theo đường số 1 vào thị Xã Biên Hòa.
Quân ta đánh chiếm sân bay Biên Hòa.
Hướng Bắc (Gò Vấp – Hóc Môn), Sư đoàn 312 (Quân đoàn 1) tiễn công căn cứ Phú Lợi. Trung đoàn 209 (Sư đoàn 312) chốt chặn trên đường số 13 và đường liên tỉnh số 14 tiêu diệt cánh quân địch rút chạy từ Lai Khê – Bến Cát về thị xã Bình Dương. Trung đoàn 27 và 48 bộ binh (Sư đoàn 320B) và các tiểu đoàn binh chủng nhanh chóng đánh chiếm khu Tân Uyên, căn cứ Lái Thiêu mở đường tiến xuống Gò Vấp.
Từ mọi hướng, các cánh quân chủ lực tiến công vào Sài Gòn.
Hướng Tây Bắc (Củ Chi – Long An), Sư đoàn 320 A (Quân đoàn 3) tiến công căn cứ của địch tại Đồng Dù và đã làm chủ Đồng Dù sau sáu giờ chiến đấu quyết liệt. Lý Bá Tòng (chuẩn tướng Tư lệnh sư đoàn 25 của địch) bị du kích Củ Chi bắt sống. Nắm thời cơ địch đang hoang mang, Sư đoàn 316 chuyển bao vây ngăn chặn địch sang tiến công tiêu diệt địch, sư đoàn 25 của địch bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn. 24 giờ ngày 29 tháng 4, binh đoàn tiến thẳng xuống ngã ba Bà Quẹo, đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất.
Đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất.
Đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu.
Đánh chiếm Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia.
Hướng Tây Nam (thuộc địa bàn Tân Bình, Bình Chánh, Nhà Bè), Sư đoàn 3 (Đoàn 232) phối hợp với pháo binh và xe tăng giải phóng thị xã Hậu Nghĩa. Tàn quân địch tháo chạy, bị Trung đoàn Gia Định 1 chặn đánh. Sư đoàn 9 (Đoàn 232) và một số đơn vị binh chủng tiến đánh vào vùng ven đô thành phố.
Hướng Đông và Tây Bắc, địch đánh trả quyết liệt cản trở quân ta đánh chiếm căn cứ Nước Trong và Hố Nai. Những cố gắng tối đa của quân địch đều trở lên vô ích, bởi không sao ngăn được sự tan vỡ toàn bộ hệ thống phòng thủ trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta.
Sau 3 ngày đêm chiến đấu quyết liệt, quân đội ta đã đánh chiếm được nhiều căn cứ, vị trí, đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, tiêu diệt và làm tan rã phần lớn các sư đoàn 5, 25,22, 18,7 của quân địch. Cao Văn Miên (tổng tham mưu trưởng) và nhiều tướng tá địch bỏ chạy. Tổng thống Mỹ G.Pho ra lệnh mở cuộc di tản bằng máy bay lên thẳng mang tên “Người liều mạng” từ 11 giờ 15 phút ngày 29 tháng 4 năm 1975, đưa nốt 5000 người Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ma-tin đại sứ Mỹ chạy khỏi Sài Gòn.
Cả nước hướng về Sài Gòn – Gia Định. Toàn bộ lực lượng tiến công Sài Gòn đã sẵn sàng. Cán bộ chiến sỹ sục sôi khí thế quyết thắng. Trên mũ, trên tay áo, trên báng súng, trên lòng pháo, trên thành xe đều ghi lời hịch của Bác Hồ “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”.
5 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, từ khắp các hướng quân đội ta ào ạt tiến vào Sài Gòn.
Tiếng pháo bắn chuẩn bị của quân ta vừa dứt, Quân đoàn 3 nhanh chóng vượt qua ngã tư Bảy Hiền tiến vào sân bay Tân Sơn Nhất. Quân đội ta chiếm được Bộ tư lệnh không quân và Bộ tư lệnh sư đoàn dù của địch làm chủ sân bay Tân Sơn Nhất. Trung đoàn 28 (Sư đoàn 10) tiến về bộ tổng tham mưu địch phối hợp chiến đấu với Quân đoàn 1 tiến về dinh Độc Lập.
Đội hình của Quân đoàn 4, giải phóng thị xã Biên Hòa, Thủ Đức, căn cứ Tam Hiệp và theo sông Đồng Nai tiến về dinh Độc Lập.
10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, xe tăng 843 do Trung úy Bùi Quang Thận (Đại đội trưởng Đại đội 4 xe tăng) và xe tăng 390 (Lữ đoàn 302) của Quân đoàn 2, Trung đoàn bộ binh 66 (Sư đoàn 304) cùng tiến đánh vào dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc phủ Tổng thống chính quyến Sài Gòn (Dinh Độc Lập). Báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Đánh chiếm Dinh Độc lập.
Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Các tầng lớp nhân dân Sài Gòn tham dự mít tinh mừng chiến thắng.
Chiến dịch Hồ Chí minh là Chiến dịch chiến lược tổng hợp tiến công và nổi dậy, là đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng của cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đồng thời đây cũng là thời điểm đánh dấu Sài Gòn được hoàn toàn giải phóng. Thành phố Sài Gòn trở về với nhân dân nước Việt Nam độc lập, thống nhất.
Từ thủ đô Hà Nội đến các hải đảo xa xôi và những bản làng hẻo lánh vang lên tiếng reo mừng Sài Gòn giải phóng. Cả dân tộc vang khúc khải hoàn “ Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Ai cũng nhớ đến Bác kính yêu!
Huệ-Chính (tổng hợp)
Nguồn:
- Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III, tác giả Lê Mậu Hãn. NXB Giáo Dục.
- Việt Nam 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ tổ quốc (1945-1975). NXB Quân đội Nhân dân 2005.
- Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam 1944 – 1975. NXB Quân đội Nhân dân.
- Đại tướng Văn Tiến Dũng về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. NXB Quân đội Nhân dân.
- Chiến dịch Hồ Chí Minh trận quyết chiến, chiến lược cuối cùng. Tác giả Hồ Sỹ Thành. NXB Trẻ 2005.