Chủ Nhật, 03/11/2024
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

22/04/2014 14:27 4894
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Cùng với việc xây dựng một chính quyền quân chủ tập trung, các vương triều Lý, Trần, Hồ đã phải đối phó chống lại những cuộc xâm lược của các vương triều phong kiến Trung Hoa phương Bắc. Âm mưu chung của các đế chế phương Bắc khi tiến hành xâm lược Đại Việt xuất phát từ một chủ nghĩa bành trướng nước lớn đối với một quốc gia nhỏ bé ở phương Nam không chịu thần phục họ và vẫn bị coi là những tộc người man di trước đây vốn là thuộc quốc của Trung Quốc Hoa Hạ, với tên gọi mang tính miệt thị là “An Nam”.

Mặt khác, xâm lược Đại Việt cũng là một biện pháp để giải quyết tình trạng nguy ngập về tài chính, kinh tế của bản thân Trung Quốc. Âm mưu tấn công Đại Việt của nhà Tống lần thứ hai (1076) cũng nhằm vượt qua tình trạng nguy ngập về tài chính, kinh tế do những biện pháp cải cách của Vương An Thạch, cũng như làm giảm bớt sự uy hiếp của các tộc Liêu, Hạ phương Bắc.

Đánh nước ta lần này, nhà Tống tuy lực có mạnh nhưng thế không mạnh. Nhà Lý chuẩn bị kháng chiến rất chủ động, vừa lo ổn định vững chắc tình hình trong nước, vừa tăng cường khả năng quốc phòng.

Sau những năm 1070, nhà Tống càng ráo riết chuẩn bị xâm lược. Quân Tống thường xuyên xâm nhập biên giới quấy nhiễu và do thám. Thời điểm nổ ra chiến tranh đã gần kề. Lý Thường Kiệt nói: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng”. Ông chủ trương tiến công để tự vệ, xuất quân tập kích tiêu diệt các căn cứ xâm lược trên đất Tống rồi nhanh chóng rút quân về tổ chức phòng thủ đất nước.

Năm 1075, trước những âm mưu khiêu khích đe dọa xâm lược của nhà Tống, vua Lý Nhân Tông và Lý Thường Kiệt đã chủ động đối phó bằng những biện pháp tích cực. Nhà Lý đã liên kết các tù trưởng các tộc người thiểu số ở vùng rừng núi phía bắc phối hợp chống giặc. Trước đó, nhà Lý đã đập tan sự uy hiếp từ phía nam bằng cách chủ động tấn công Chămpa.

Ngày 17-10-1075, hơn 10 vạn quân Đại Việt chia làm hai đạo nhanh chóng bất ngờ vượt biên giới đánh vào đất Tống. Một đạo quân gồm binh lính địa phương vùng biên giới do các tướng lĩnh người dân tộc thiểu số: Tông Đản, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An, chỉ huy tiến công các đồn trại quân Tống ở biên giới rồi tiến về Ung Châu. Đạo quan chủ lực do Lý Thường Kiệt chỉ huy tập trung ở Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) dùng thuyền vượt biển đánh chiếm Khâm Châu, Liêm Châu tiến đến hợp quân với đạo quân đi đường bộ vây đánh thành Ung Châu. Đến lúc này, triều Tống mới được tin báo, vội cho một vạn quân xuống ứng cứu nhưng đến ải Côn Lôn (phía bắc Ung Châu) đã bị quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt mai phục sẵn ở đây tiêu diệt.

Lý Thường Kiệt chỉ huy quân và dân Đại Việt đánh phủ đầu tiêu diệt các căn cứ xâm lược trên đất Tống (Ảnh minh họa)

Sau 42 ngày vây hãm, chiến đấu gan dạ, mưu trí, ngày 1-3-1076, quân ta đã chiếm được Ung Châu, căn cứ chính rất kiên cố của quân Tống. Quân ta đốt phá kho tàng, phá hủy thành lũy, lấy đá lấp sông để ngăn chặn đường thủy của địch. Mục tiêu tiến công đã hoàn toàn thắng lợi. Trong khi triều Tống đang lúng túng chưa kịp phản ứng thì tháng 4 năm 1076, quân ta đã chủ động nhanh chóng rút quân về nước.

Sau khi rút quân về nước, Lý Thường kiệt dàn thế trận kháng chiến, ông đoán biết rằng quân xâm lược sẽ vào theo hướng bắc và đông bắc rồi tiến đến mục tiêu chính là chiếm thành Thăng Long. Trên những con đường tiến quân của địch, ông bố trí các lực lượng quân địa phương cùng dân binh làm nhiệm vụ kiềm chế và tiêu hao địch. Tại bờ nam sông Như Nguyệt, ông cho xây dựng một phòng tuyến vững chắc, chặn đứng mọi đường tiến quân của địch xuống Thăng Long.

Quân và dân Đại Việt xây dựng phòng tuyến sông Cầu trong cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai (Ảnh minh họa)

Phía trước là dòng sông rộng, ven bờ có nhiều tầng cọc tre, rào tre tạo thành bãi chướng ngại, quân thủy quân bộ đều khó vượt qua, trên bờ dựng lũy đất cao có binh lính với vũ khí trang bị đánh quân đổ bộ túc trực ngày đêm. Một đạo quân trấn giữ vùng duyên hải hướng đường thủy đông bắc để ngăn chặn thủy binh địch, còn đại bộ phận thủy binh đóng ở Vạn Xuân cơ động đánh địch trên các hướng. Đại quân do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đóng phía sau chiến lũy, vùng Từ Sơn (Bắc Ninh) chỉ huy, tiếp ứng và công thủ trên cả hai hướng thủy, bộ. Toàn bộ chủ lực quân, thủy bộ của ta trên chiến tuyến Như Nguyệt có thể và trên 6 vạn. Lý Thường Kiệt đã kết hợp địa hình tự nhiên, bãi chướng ngại vật với quân đội mà bố trí lực lượng có trọng điểm để vừa có thể kiểm soát, bảo vệ được toàn chiến tuyến vừa có thể nhanh chóng tập trung đánh lại có hiệu quả những mũi đột phá của địch và tổ chức phản công khi có thời cơ.

Quân Tống bắt đầu cuộc xâm lược nước ta vào mùa thu năm 1076. Tháng 7 âm lịch (năm Bính Thìn), 30 vạn bộ binh và kỵ binh, trong đó có 1 vạn kỵ binh và một đạo thủy quân do Quách Quỳ làm chủ tướng và Triệu Tiết làm phó tướng xuất quân đánh nước ta, với lực lượng mạnh, quân Tống đã vượt qua các lực lượng đánh ngăn chặn của quân ta vùng biên giới, nhanh chóng tiến đến bờ bắc sông Như Nguyệt. Bị phòng tuyến Như Nguyệt chặn lại, quân Tống rải quân đóng trên trận tuyến dài 30 km từ bến đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền (Việt Yên, Bắc Giang).

Đầu năm 1077, Quách Quỳ cho bắc cầu phao tổ chức vượt sông đột phá phòng tuyến quân ta ở bến đò Như Nguyệt nhưng bị đánh bại. Quách Quỳ chờ thủy quân đến có phương tiện vượt sông và phối hợp thủy bộ tiến công nhưng đạo thủy quân Tống đến bờ biển Quảng Ninh đã bị thủy quân ta do tướng Lý Kế Nguyên đánh cho tan tác, số tàn quân phải nằm lại ngoài đảo. Chờ thủy quân không được, Quách Quỳ ra lệnh đóng bè chở quân đổ bộ sang bờ nam sông Như Nguyệt nhưng bị quân ta từ trên lũy cao đánh xuống, số quân Tống vượt sông bị tiêu diệt hoàn toàn. Cuộc tiến công lần thứ hai thất bại thảm hại. Quách Quỳ phải ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém”.

Chủ lực của địch là bộ binh và kị binh đã không thể liên hệ được với thủy binh và bị chặn đứng lại trước chiến tuyến sông Như Nguyệt. Quân địch tuy chiếm được khu Đông Bắc và bắc ngạn sông Cầu nhưng đã mất thế chủ động tiến công và bị hãm trong một địa bàn rất bất lợi. Đó là vùng thượng du và trung du, dân cư thưa thớt, quân Tống không thể vơ vét cướp bóc được. Lương ăn của đạo quân xâm lược hoàn toàn trông chờ vào việc vận chuyển tiếp tế bằng đường bộ của dân phu.

Ngã Ba Xà (xã Tam Giang, Yên Phong, Bắc Ninh), nơi diễn ra trận quyết chiến của quân và dân Đại Việt với quân Tống năm 1077.

Quân dân ta vòng sau lưng địch lại phát triển các hoạt động đánh du kích. Những đoàn phu vận chuyển lương thực luôn bị chặn đánh. Những đội quân thượng du của ta cùng với dân chúng các tộc người thiểu số len lỏi trong rừng sâu, núi cao thường bất ngờ tiến ra đánh tỉa. Hoạt động mạnh nhất là đạo quân của phò mã Thân Cảnh Phúc ở vùng động Giáp. Sách Đại việt sử kí dẫn một đoạn trong sách Quế Hải chí như sau: ''Viên tri châu quan lang là phò mã bị thua, bèn trốn vào trong bụi cỏ, thấy quân Tống đi lẻ loi thì giết chết hoặc bắt về... Người ta cho là một vị thiên thần''. Quân Tống rất hoang mang lo sợ.

Đền Miễu (Đền Can Vàng), Yên Phong, Bắc Ninh, nơi danh tướng Lý Thường Kiệt đọc bài thơ “Thần” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ 2, 1077

Tháng 2-1077, Lý Thường Kiệt chủ trương phản công chiến lược. Thủy quân ta vượt sông đánh mạnh vào trận địa ở Nham Biền, vừa tiêu diệt một bộ phận quân địch vừa nghi binh thu hút địch chú ý vào hướng này, sau đó rút lưu. Đồng thời đại quân ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy vượt sông bất ngờ đánh vào cánh quân Triệu Tiết, tiêu diệt quá nửa số quân Tống ở đây ước tính vài vạn tên. Sau trận này, quân Tống lâm vào tình trạng quẫn bách, quân tướng đều mệt mỏi, tinh thần sa sút. Nắm tình hình đó, Lý Thường Kiệt chủ trương kết thúc chiến tranh để “không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu”. Ông chủ động điều đình mở lối thoát cho địch. Cuộc thương lượng “giảng hòa” để quân Tống rút về nước nhanh chóng được hai bên thỏa thuận.

Trong trận đánh này, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Một đêm, quân sĩ (của ta), chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư.

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Đây chính là bài thơ “Thần” cổ vũ tinh thần yêu nước thành sức mạnh chiến đấu trực tiếp diệt thù, khẳng định độc lập, tự chủ, quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của dân tộc ta qua bài thơ bất hủ như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, tương truyền của Lý Thường Kiệt.

Từ trận đột kích Ung Châu đến trận tập kích Như Nguyệt, 30 vạn lính và phu của nhà Tống bị tiêu diệt. Trong lần xuất chinh năm 1076- 1077 của nhà Tống, thì 10 vạn quân ra đi, khi về còn lại hơn 2 vạn (23.400), tám trong số 20 vạn phu đã bỏ mạng. Toàn bộ chi phí chiến tranh được người nhà Tống tính ra là 5.100.000 lạng vàng, ý chí xâm lược của nhà Tống tiêu tan, 2000 năm sau nhà Tống còn tồn tại nhưng không dám nói đến việc xâm lược nước ta một lần nữa.

Tượng Vệ Quốc Công Lý Thường Kiệt tại Đại Nam Quốc Tự (Thủ Dầu Một, Bình Dương)

Cuộc kháng chiến chống Tống đời Lý có vị trí đặc biệt trong lịch sử chiến tranh chống ngoại xâm cũng như lịch sử phát triển của dân tộc ta. Dựa vào sự đánh giá đúng đắn tương quan thế và lực giữa ta với địch, tạo thời cơ chủ động sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh kết hợp với tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh tự vệ, lòng nhân ái khoan dung của dân tộc ta thể hiện rõ rệt trong giải quyết giữa đánh và giảng hòa. Đánh cho quân địch thiệt hại nặng, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chủ động thương lượng đuổi quân địch khỏi đất nước ta, kết thúc chiến tranh, khôi phục nền độc lập.

Nguyễn Thúy (tổng hợp)

Nguồn tư liệu:

1. Từ điển Bách khoa Tri thức quốc phòng toàn dân: H: Chính trị Quốc gia, 2002.

2. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên). Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 1.

3. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên). Tiến trình lịch sử Việt Nam.

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Đồng chí Xuân Thủy với báo Suối Reo và báo Cứu Quốc

Đồng chí Xuân Thủy với báo Suối Reo và báo Cứu Quốc

  • 18/06/2019 10:06
  • 4948

* Làm báo Suối Reo trong nhà tù Sơn La

Bài viết khác

Kỷ niệm 937 năm cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai thắng lợi (1077- 2014)

Kỷ niệm 937 năm cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai thắng lợi (1077- 2014)

  • 21/04/2014 10:34
  • 3889

Cùng với việc xây dựng một chính quyền quân chủ tập trung, các vương triều Lý, Trần, Hồ đã phải đối phó chống lại những cuộc xâm lược của các vương triều phong kiến Trung Hoa phương Bắc. Âm mưu chung của các đế chế phương Bắc khi tiến hành xâm lược Đại Việt xuất phát từ một chủ nghĩa bành trướng nước lớn đối với một quốc gia nhỏ bé ở phương Nam không chịu thần phục họ và vẫn bị coi là những tộc người man di trước đây vốn là thuộc quốc của Trung Quốc Hoa Hạ, với tên gọi mang tính miệt thị là “An Nam”.