Thứ Sáu, 13/09/2024
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

07/02/2014 08:42 12869
Điểm: 4/5 (1 đánh giá)
Để đối phó với địch, quyết tâm của ta là bằng mọi giá phải bảo vệ bằng được Đường mòn Hồ Chí Minh; bất luận hoàn cảnh nào cũng phải sẵn sàng để đánh địch trên các hướng, nếu địch đánh ra Đường 9 thì đó là cơ hội cho ta tiêu diệt chúng.

Trong lúc công tác chuẩn bị chiến trường của ta đang diễn ra khẩn trương thì ngày 27-1-1971 địch tập trung các hoạt động nghi binh vào khu vực Nam Quân khu 4. Trên hướng mặt trận Đường 9 Bắc Quảng Trị, địch tung nhiều toán biệt kích, thám báo ra khu vực ven Đường 9 thăm dò lực lượng ta, đồng thời cho quân nống ra 4 xã bờ nam sông Bến Hải dọc theo khu phi quân sự.

Sau khi địch đánh phá ác liệt vào các mục tiêu ven Đường 9 và sâu vào các tuyến vận tải của ta ở phía tây bắc Đường 9 lên giáp biên giới Việt - Lào, ngày 30-1, một trung đoàn hỗn hợp của Sư đoàn bộ binh số 9 Mỹ mở trận càn “Đi-nê-cu-ni-on” dọc Đường 9 phía Nam khu phi quân sự, chiếm lại khu vực Khe Sanh để làm bàn đạp cho cuộc tiến công sang Nam Lào và nghi binh cho quân ngụy Sài Gòn mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh sang khu vực Đường 9 - Nam Lào.

Ngay sau khi địch triển khai lực lượng, Bộ tư lệnh mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị do đồng chí Nguyễn Anh Đệ làm Tư lệnh đã khẩn trương cơ động lực lượng đánh địch nhằm tiêu hao một phần sinh lực, phương tiện, làm chậm bước tiến của địch tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực bộ triển khai lực lượng đánh địch trên các hướng.

Do đó, khi cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của địch bắt đầu, cũng là lúc Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân ủy Trung ương: “Nhất thiết phải đánh thắng trận này dù có phải động viên sức người, sức của và hy sinh như thế nào, vì đây là một trận có ý nghĩa về chiến lược”.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Bộ Chính trị, ngày 6 tháng 2 năm 1971, Bộ tư lệnh mặt trận Đường 9 - Nam Lào (Bí danh Bộ tư lệnh 702) được thành lập . Đây là Bộ tư lệnh có đủ quyền hạn và khả năng chỉ huy, tất cả các lực lượng tham gia chiến dịch và tổ chức hiệp đồng với các chiến trường có liên quan như: Bộ tư lệnh B70, Đoàn 559, Bộ tư lệnh Đường 9 Bắc Quảng Trị, B4, Quân khu 4, lực lượng vũ trang của bạn ở Nam Lào.

Bản sao của một trong những bản đồ chiến dịch Lam Sơn 719 của quân Mỹ và Sài Gòn xâm nhập vùng Hạ Lào, nhằm vào vùng hậu cần của bộ đội ta, năm 1971.

Từ khu vực Khe Sanh, sau khi triển khai chiếm lĩnh trận địa xuất phát tấn công, ngày 8 tháng 2 năm 1971, địch mở cuộc hành binh ào ạt tiến công vượt biên giới Việt - Lào với 6 trung, lữ đoàn quân ngụy, trên 3 hướng:

Hướng chủ yếu do chiến đoàn đặc nhiệm gồm Lữ đoàn dù số 1, hai Thiết đoàn 11, 17 tiến công theo trục Đường 9 bằng cơ giới và thiết giáp; Tiểu đoàn 9 thuộc Lữ đoàn dù số 1 cơ động bằng máy bay lên thẳng, đổ bộ đánh chiếm Bản Đông.

Hướng thứ yếu gồm Lữ đoàn dù số 3 ngụy và tiểu đoàn biệt động quân do Đại tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy cơ động bằng máy bay lên thẳng đổ quân đánh chiếm và thiết lập các căn cứ hỏa lực ở các điểm cao 500, 316, 655 (Phu A Rinh), 543, 532, 546, 570, 611.

Hướng thứ yếu khác do Sư đoàn 1 bộ binh ngụy đảm nhiệm đánh chiếm đồi Cô Bốc các điểm cao 619, 537, 550, 532, 540.

Thực hiện quyết tâm tác chiến của Bộ chỉ huy Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, các lực lượng ém quân trên các hướng. Các chốt chặn của chiến dịch được lệnh nổ súng chia cắt, ngăn chặn làm giảm nhịp điệu tiến công của địch, tạo ra những yếu tố bất ngờ, tiêu diệt một bộ phận sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch, bảo vệ kho tàng giao thông vận chuyển. Các lực lượng cơ động, chủ lực phục kích, tập kích ngăn chặn địch ở Bản Đông.

Ngày 8-2-1971 trên hướng tấn công chủ yếu của địch, bộ đội ta đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công của quân ngụy Sài Gòn. Khi chúng vượt qua biên giới Việt Nam sang Lào, bộ đội ta vẫn giữ vững các điểm chốt.

Bộ đội Việt - Lào truy kích địch trên Đường 9.

Đặc biệt, 16 giờ chiều ngày 8-2-1971 tại khu vực đường 16, Trung đoàn 88 thuộc Sư đoàn 308, vừa cơ động tới A Lia thì gặp địch đổ quân xuống điểm cao 316, sát trận địa pháo của ta ở Làng Sen. Chiều 10-2 quân địch chiếm được Bản Đông. Ta quyết tâm vây đánh không cho chúng tiến lên Sê Pôn. Đêm 11-2, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 88 và Đại đội 9 Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 64 phối hợp tập kích Tiểu đoàn 2 thuộc Lữ đoàn dù số 1 ở Bắc Sê Num. Tiếp đó, đến ngày 12-2 Tiểu đoàn 4 (thiếu Đại đội 2) được tăng cường Đại đội 9, Tiểu đoàn 6 thuộc Trung đoàn 88 tập kích Tiểu đoàn biệt động quân 39 vừa đáp máy bay trực thăng xuống điểm cao 500.

Trước tình hình đó, kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch là kiềm chế địch trên các hướng, đồng thời thực hiện chia cắt Đường 9, con đường độc đạo nối thông từ Quảng Trị, Việt Nam qua tỉnh Sa-van-na-khệt, Lào bao vây, cô lập lực lượng tinh nhuệ ở Bản Đông. Chặn lực lượng địch tiến lên Sê Pôn. Nếu quân địch chọc thủng tuyến bao vây, chia cắt để lên được thì lập tức tập trung lực lượng đủ mạnh buộc địch sa lầy và bị tiêu diệt lớn ở đó. Từng bước điều chỉnh lực lượng nhằm triển khai thế trận phản công, toàn chiến dịch. Thực hiện đúng kế hoạch tác chiến ngày 15-2-1971 các đơn vị trên cả ba hướng chiến dịch bắt đầu mở đợt phản công, tiêu diệt địch.

Trên hướng chủ yếu, điểm cao 500 do Tiểu đoàn số 39 liên đoàn biệt động quân số 1 ngụy chiếm giữ được chọn là mục tiêu “đột phá khẩu”. Đây là điểm cao khống chế có ý nghĩa về chiến thuật nằm sát trục đường 16B, nối đường 16A với Bản Đông. Tiểu đoàn số 39 là tiểu đoàn thiện chiến với trang bị hỏa lực mạnh lại được hỏa lực pháo binh và không quân Mỹ chi viện. Địch coi đây là một chốt chặn quan trọng trên hướng Bắc.

Ý thức được trận đánh điểm cao 500 có ý nghĩa then chốt tác động đến sự phát triển của chiến dịch, vì vậy Bộ tư lệnh Sư đoàn 308 quyết định chọn Trung đoàn chủ công 102 do Trung đoàn trưởng Hoàng Ngọc Tý và Chính ủy Nguyễn Hữu Ích chỉ huy thực hiện trận đánh quan trọng này. Từ ngày 16-2-1971 đến ngày 20-2-1971, ta dùng các chiến thuật vây lấn và hỏa lực chế áp, phá hoại các mục tiêu, dưới lưới lửa súng phòng không của ta, không quân địch khó khăn trong việc tiếp ứng cho điểm cao 500, vì vậy quân địch chống trả ngày càng yếu ớt. Đến chiều ngày 20-2-1971, quân ta hoàn toàn làm chủ điểm cao 500, tiểu đoàn biệt động quân 39 bị xóa sổ.

Trưa ngày 25-2-1971 được hỏa lực pháo binh chi viện, bộ binh Trung đoàn 64 và xe tăng phối thuộc tấn công vào căn cứ 31. Mặc dù địch tập trung pháo binh và không quân bắn ngăn chặn quyết liệt nhằm chi viện cho lực lượng phản kích, nhưng chiều 25-2 chiến sĩ Trung đoàn 64 đã làm chủ căn cứ 31, tiêu diệt gọn tiểu đoàn dù 3, tiểu đoàn pháo binh và sở chỉ huy Lữ đoàn dù số 3, bắt sống viên Đại tá Nguyễn Văn Thọ và toàn bộ cơ quan tham mưu lữ đoàn.

Ngày 26-2-1971, sau khi Lữ đoàn dù số 3 bị tiêu diệt. Địch buộc phải tổ chức lại Sư đoàn dù, tổ chức thành 2 lữ đoàn gồm 7 tiểu đoàn và 1 tiểu đoàn trực thuộc Sư đoàn dù có nhiệm vụ trấn giữ Bản Đông, và giải tỏa Đường 9 giảm áp lực chia cắt của ta.

Cho đến ngày 3-3-1971 ta đã chặn đứng được địch ở Bản Đông không cho địch phát triển lên Sê Pôn bằng lực lượng thê đội 1 chiến dịch, buộc địch phải sử dụng thê đội 2 chiến dịch tiếp tục kế hoạch tiến công lên Sê Pôn với mục tiêu hạn chế. Các lực lượng của ta giữ vững Sê Pôn bảo đảm an toàn tuyến vận chuyển chiến lược bao vây, chia cắt địch đồng thời điều động lực lượng chuẩn bị điều kiện để thực hành phản đột kích lớn tiêu diệt lực lượng chiến dịch của địch. Lực lượng thê đội 1 và cả thê đội 2 chiến dịch của địch đều tổn thất nặng nề. Vì vậy, địch sử dụng 2 tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung đoàn 2, Sư đoàn 1 bộ binh, đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống Đông Bắc Sê Pôn. Nhưng kế hoạch không thành, 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 2, Sư đoàn bộ binh 1 ngụy cũng không thể tới được Sê Pôn vì bị quân ta chặn đánh.

Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tổ chức tấn công vào đối phương tại đồi 723 - Đường 9 Nam Lào.

Để chuẩn bị điều kiện đánh đòn tiêu diệt quyết định của chiến dịch, Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương: Tiêu diệt lực lượng của Sư đoàn bộ binh 1 ở Nam Đường 9 là nơi địch sơ hở, đồng thời giữ vững Sê Pôn, Na Bo, chia cắt, bao vây và diệt địch ở các điểm cao 550, 532, giữ vững Sa Đi - Mường Noọng.

Thực hiện chủ trương trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch điều trung đoàn 64 của Sư đoàn 320 lên phía tây nhằm tăng cường giữ Sê Pôn, điều trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 cơ động về phía tây dự bị cho Sư đoàn 2 và dự bị cho hướng Bản Đông, sử dụng Sư đoàn 2 (thiếu trung đoàn 31) để tiến công tiêu diệt Sư đoàn 1 bộ binh địch, sử dụng Sư đoàn 324 (thiếu trung đoàn 2) tiến công tiêu diệt Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến.

Đồng thời, sử dụng 3 trung đoàn: trung đoàn 2 của Sư đoàn 324, trung đoàn 102 của Sư đoàn 308 và trung đoàn 24 của Sư đoàn 304 để cắt Đường 9 đoạn từ Lao Bảo đến Bản Đông, đồng thời đánh địch từ Lao Bảo đến Khe Sanh; Sư đoàn 2 cùng với lực lượng phối thuộc, tăng cường bao vây, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh số 1 ngụy; sử dụng Sư đoàn 308 để chuẩn bị tiêu diệt địch ở Bản Đông. Pháo binh chiến dịch được sử dụng tập trung để đánh Bản Đông, Lao Bảo, Khe Sanh. Sau khi điều chỉnh và cơ động lực lượng, ta đã hình thành thế bao vây, chia cắt cô lập địch trên từng khu vực, trong khi ta vẫn giữ vững tuyến vận chuyển chiến lược, sẵn sàng chuẩn bị chuyển sang thực hành tiến công lớn tiêu diệt lực lượng chiến dịch của địch.

Trận địa pháo của địch bị quân ta tiêu diệt, năm 1971.

Ngày 12-3-1971 ta mở đợt 3 chiến dịch thực hiện đòn tiêu diệt lực lượng địch ở Bản Đông. Trung đoàn 102 thực hiện cắt Đường 9, trong trận đánh ở điểm cao 311 trung đoàn đã đánh lui 20 đợt phản kích của Lữ dù số 2 diệt 450 tên địch, bắn cháy 65 xe tăng, xe thiết giáp, bắn rơi 3 chốt chặn của ta tại các điểm cao 311, 334, 351 đã chặn đứng mọi hoạt động tiếp ứng của địch trên Đường 9.

Sáng ngày 16-3-1971, Sư đoàn 2 được tăng cường tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320, thực hiện mệnh lệnh của Tư lệnh chiến dịch đánh địch, mục tiêu tiêu diệt là Trung đoàn 1 bộ binh thuộc Sư đoàn 1 ngụy khi chúng bỏ điểm cao 723 chạy về hướng Đông Bắc và lọt vào khu vực ta cài sẵn. Hai tiểu đoàn của Trung đoàn 141 từ các sườn núi cao đánh dốc xuống kẹp chặt toàn bộ quân địch. Cùng lúc, Tiểu đoàn 40 của Trung đoàn Ba Gia vận động đánh cắt ngang sườn đội hình của quân ngụy đang tháo chạy.

Các chiến sĩ ta từ 3 hướng dũng mãnh xung phong vào đội hình đang rối loạn của địch. Đến trưa ngày 16 tháng 3, toàn bộ Tiểu đoàn 1 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Lực lượng còn lại của Trung đoàn 1 bộ binh ngụy co cụm, phân tuyến để máy bay B.52 ném bom vào đội hình quân ta.

Ngày 19-3-1971, sau 7 ngày vận chuyển gạo, đạn phục vụ chiến dịch, tiểu đoàn 3, Trung đoàn 27 được lệnh cơ động diệt địch ở động Na, Kế Sách, Ba Lào. Chờ xe tăng và thiết giáp địch lọt vào đội hình phục kích của tiểu đoàn trên đường số 9, Nguyễn Huy Hiệu dẫn mũi chủ yếu của tiểu đoàn đánh thẳng vào giữa đoàn xe. Sau 1 giờ chiến đấu, tiểu đoàn diệt gọn 28 xe tăng, thiết giáp, vận tải và tiêu diệt gần 100 tên Mỹ - ngụy.

Trên hướng Bản Đông, các Trung đoàn bộ binh 66, 64, 36 có xe tăng, pháo binh, cao xạ phối hợp bao vây, chia cắt cụm cứ điểm Bản Đông. Trước sức tấn công mạnh mẽ của ta, ngày 18-3-1971 địch bắt đầu rút khỏi Bản Đông trong hoảng hốt, lo sợ, ta lập tức công kích vào toàn bộ khu vực Bản Đông. Sáng ngày 20 tháng 3 ta làm chủ hoàn toàn Bản Đông, diệt 1.762 tên, bắt sống 107 tên, thu và phá hủy 113 xe, 24 khẩu pháo, bắn rơi 52 máy bay.

Bắt sống cả máy bay và xe bọc thép của Mỹ tại cửa ngõ Bản Đông, năm 1971.

Ở phía đông, ngày 23-3-1971, phối hợp với lực lượng Đường 9 Nam Lào, Bộ đội Đặc công B5 đã tập kích địch ở Tà Cơn, tiêu diệt 100 tên giặc lái và nhân viên kỹ thuật, phá hủy 42 máy bay lên thẳng, 6 xe tăng. Một bộ phận lực lượng của ta phát triển đánh vào khu vực Hướng Hóa, Khe Sanh làm cho địch náo loạn, co cụm không dám phản kích.

Trong những ngày từ 19 đến 23-3-1971, Bộ tư lệnh chiến dịch chuyển dịch đội hình về phía đông, kết hợp truy kích địch với tác chiến ngăn chặn, lần lượt tiêu diệt địch co cụm ở các khu vực Cha Ky, Huổi San, Lao Bảo, Làng Vây. Cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh ra Đường 9 - Nam Lào của Mỹ - ngụy biến thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn.

Sau 52 ngày chiến đấu, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi, ta đã thu được kết quả hết sức to lớn: Loại khỏi vòng chiến đấu 19.960 tên, bắt làm tù binh 1.142 tên; tiêu diệt 3 lữ đoàn, trung đoàn bộ binh, 5 tiểu đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn pháo binh, 4 thiết đoàn; đánh thiệt hại nặng Sư đoàn dù, Sư đoàn bộ binh 1, đánh thiệt hại Sư đoàn thủy quân lục chiến; bắn rơi và phá hỏng 556 máy bay (trong đó 505 máy bay lên thẳng, phá hủy và đánh chìm 43 tàu, xà lan, phá hủy 1.138 xe cơ giới (trong đó có 528 xe tăng và bọc thép). Ta thu được một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh (máy bay, xe tăng, pháo, cối, xe vận tải, các loại đạn...).

Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào 1971 đã giáng cho Mỹ - ngụy một đòn thất bại nặng nề về cả quân sự lẫn chính trị, cho ta nhiều kinh nghiệm quý báu về chỉ đạo chiến lược, chiến dịch, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần thiết thực vào việc chỉ đạo xây dựng huấn luyện và tác chiến cho lực lượng vũ trang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Với thắng lợi to lớn toàn diện, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào là biểu tượng sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Thắng lợi ở Đường 9 - Nam Lào đã đánh bại một bước quan trọng, mở ra khả năng hiện thực để đánh bại hoàn toàn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, làm sa sút nghiêm trọng tinh thần quân đội Sài Gòn và quân viễn chinh Mỹ. Thắng lợi đó của ta cũng đã bảo vệ được “con đường mòn Hồ Chí Minh” cùng với toàn bộ hành lang chiến lược của ta.

Lê Khiêm (biên tập)

Nguồn: Thiếu tướng Lê Mã Lương, “Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào”, Ký ức 81 ngày đêm thành cổ Quảng Trị và nhìn lại trận chiến mùa hè đỏ lửa Đường 9 Nam Lào (Kỷ niệm lịch sử 40 năm những người lính đã đi qua cuộc chiến khốc liệt, kiên cường (1972-2012)), H.: Văn hóa - Thông tin, 2012, tr. 24-35.

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Đồng chí Xuân Thủy với báo Suối Reo và báo Cứu Quốc

Đồng chí Xuân Thủy với báo Suối Reo và báo Cứu Quốc

  • 18/06/2019 10:06
  • 4809

* Làm báo Suối Reo trong nhà tù Sơn La

Bài viết khác

Kỷ niệm 84 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2014) -Con dấu của Đảng Cộng sản Đông Dương

Kỷ niệm 84 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2014) -Con dấu của Đảng Cộng sản Đông Dương

  • 31/01/2014 20:56
  • 3335

Cuối năm 1929, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã rời Thái Lan đến Nam Hương Cảng để chuẩn bị kế hoạch tổ chức Hội nghị hợp nhất các nhóm Cộng sản ở Việt Nam. Hội nghị được tiến hành tại Hương Cảng từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, các đại biểu dự Hội nghị đã nhất trí thành lập một Đảng mới lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.