Vào đầu thế kỷ XIII, trên đất nước Mông Cổ ngày nay hình thành một quốc gia quân sự độc tài của cư dân du mục, thạo cưỡi ngựa, bắn cung, quen sống du mục hoang sơ trên vùng thảo nguyên rộng lớn. Với lực lượng quân sự mạnh, dựa trên những đạo kỵ binh thiện chiến, các vua Mông Cổ đã lao vào cuộc chiến tranh chinh phục khủng khiếp.
Trong vòng nửa thế kỷ, Thành Cát Tư Hãn và các vua Mông Cổ với đoàn quân viễn chinh khét tiếng tàn bạo, tấn công ồ ạt, chớp nhoáng đánh đâu thắng đó đã chinh phục hết quốc gia này đến quốc gia khác, thành lập một đế quốc Mông Cổ rộng lớn từ bờ biển Đông Á Thái Bình Dương đến tận Hắc Hải. Cả châu Á và châu Âu bao trùm bóng đen xâm lược của Mông Cổ. Nước Đại Việt cũng không nằm ngoài bối cảnh chung đ

Kỵ binh Mông Cổ (tranh minh họa)
Năm 1226, triều Trần được thiết lập, chấm dứt cuộc khủng hoảng suy tàn cuối triều Lý. Triều Trần đảm nhận sứ mệnh đẩy mạnh công cuộc dựng nước và chăm lo quốc phòng đối phó với nạn ngoại xâm.
Trước khi tiến công vào biên giới Đại Việt, vua Mông cổ là Hốt Tất Liệt đã nhiều lần sai sứ giả đến Thăng Long dụ hàng vua Trần Thái Tông, nhưng bị vua Trần cự tuyệt. Triều đình nhà Trần ở Thăng Long cũng như toàn dân Đại Việt không may may run sợ trước sự đe dọa của Mông Cổ, đã khẩn trương chuẩn bị kháng chiến. Vua Trần Thái Tông đã xuống chiếu cử Trần Quốc Tuấn chỉ huy các tướng đem quân thủy bộ lên phòng ngự ở biên giới. Cả nước nhận được lệnh sắm sửa vũ khí, chờ ngày đánh giặc. Để tỏ ý chí kiên quyết của mình, vua Trần đã cho giam tất cả những tên sứ giả hỗn xược của Mông Cổ.
Cuối năm 1257, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy khoảng 4 vạn kỵ binh từ Đại Lý kéo sang xâm lược Đại Việt. Chúng theo đường bộ dọc sông Thao, sông Hồng tiến về Thăng Long. Quân ta do Trần Nhật Duật chỉ huy triển khai đánh chặn địch ở Yên Bái, Tuyên Quang. Vua Trần Thái Tông đích thân chỉ huy quân đội đánh chặn quyết liệt quân giặc ở Bình Lệ Nguyên (17-1-1258) và Phù Lỗ (18-1-1258). Trước thế mạnh đang tiến công ồ ạt của quân giặc, nhà vua thực hiện kế hoạch “vườn không nhà trống”, rút khỏi kinh đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng, đẩy địch vào tình thế khó khăn, phát động chiến tranh nhân dân làm tiêu hao sinh lực địch, phản công lớn truy kích dịch. Cuộc rút lui chiến lược của quân đội và triều đình được tổ chức chu đáo. Nhân dân Thăng Long cùng rời kinh đô, tản cư về vùng nông thôn.

Lược đồ cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất (1258) của quân và dân Đại Việt.
Quân giặc vào được thành Thăng Long nhưng là một tòa thành trống rỗng, không người, không lương thực. Chúng tàn phá Thăng Long nhưng không dám tiến công tiếp vì không biết quân chủ lực của ta ở đâu, mở rộng chiếm đóng thì quân số có hạn. Lương thực mang theo đã hết, nguồn tiếp tế vốn không được phòng bị cho cách đánh nhanh thắng nhanh, trông chờ cướp lương để ăn thì không có. Chúng mở rộng các cuộc hành quân cướp phá rộng ra các vùng xung quanh Thăng Long, nhưng ở đâu chúng cũng gặp phải sức chống trả quyết liệt của nhân dân làng xã. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Khoảng niên hiệu Nguyên Phong (1251-1258) đời Trần, người Thát Đát vào cướp, đi đến địa phương này, ngựa khuỵu gục chân không đi được, người trong thôn dẫn dân chúng ra chống đánh, chém được đầu giặc. Quân giặc tan chạy”, điều này rõ ràng đã chứng tỏ có một cuộc chiến đấu của nhân dân ở đây, lấy làng xã làm pháo đài, lấy đội dân binh làm nòng cốt với sự tham gia của đông đảo dân làng. Những hoạt động đó của nhân dân đã góp phần làm cho quân xâm lược suy yếu, tạo thời cơ tốt để quân triều đình phản công tiêu diệt giặc.
Quân dân Đại việt đã chủ động tạo nên cục diện mới trên chiến trường. Đại quân và triều đình theo sông Hồng rút về xuôi, đóng dọc khúc sông Thiên Mạc. Quân ta dùng thuyền rút theo đường sông nên kỵ binh Mông Cổ nếu truy kích sẽ gặp khó khăn. Mặt khác địch lại không rõ tình hình, ý định của ta nên không dám truy kích. Tại vùng Thiên Mạc, quân ta nhanh chóng củng cố, tăng cường lực lượng. Và khi thời cơ đến, binh thuyền của ta có thể nhanh chóng theo sông Hồng tiến về Thăng Long phản công được thuận tiện.

Bến Đông Bộ Đầu (gần cầu Long Biên- Hà Nội) nơi diễn ra trận quyết chiến giữa quân Nguyên Mông và quân nhà Trần (1/1258)
Trước tình hình đó, vua Trần Thái Tông và tể tướng Trần Thủ Độ họp bàn với các tướng quyết định kế hoạch “nhân cơ đánh úp giặc”. Cuối tháng 1-1258, vua Trần Thái Tông và thái tử Trần Hoảng trực tiếp chỉ huy quân thủy bộ ngược sông Hồng tiến về Thăng Long. Quân Trần đã được bảo toàn, củng cố, đang hết sức hăng hái, mở cuộc tiến công mạnh mẽ vào Đông Bộ Đầu, nơi tập kết hầu như toàn bộ kỵ binh và bộ chỉ huy, đầu não của quân giặc.
Quân Trần tiến đánh theo hai cánh. Cánh quân thủy do Trần Khánh Dư chỉ huy từ sông Hồng bí mật đổ bộ lên bến Đông Bộ Đầu từ phía Đông. Cánh quân bộ chia làm hai mũi từ phía nam và phía tây đánh thọc vào đại bản doanh quân giặc.

Quân Mông Cổ tan vỡ trong trận Đông Bộ Đầu, tìm đường tháo chạy về phương Bắc.(tranh minh họa)
Nửa đêm ngày 28-1-1258, quân ta được lệnh tiến công. Bị tập kích bất ngờ, kỵ binh Mông Cổ bàng hoàng “người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên”, chống đỡ một cách yếu ớt, bị rối loạn và nhanh chóng tan vỡ. Quân Mông Cổ bị đánh bật ra khỏi kinh thành Thăng Long. Chúng theo đường bộ chạy theo hướng Vân Nam. Đến trại Quy Hóa (Phú Thọ) chúng bị dân binh dưới sự chỉ huy của chủ trại Hà Bổng đổ ra chặn đánh. Địch tổn thất nặng nề, chạy một mạch về bên kia biên giới, không còn dám cướp bóc như khi mới vào Đại việt. Như vậy, chỉ sau 9 ngày chiếm đóng Thăng Long, chúng đã bị thất bại thảm hại.
Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân ta đã thắng lợi. Kinh thành Thăng Long được giải phóng, đất nước sạch bóng quân thù.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của nhà Trần, quân dân Đại Việt đã giành thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ Tổ Quốc. Lần đầu tiên, sau 30 năm ra đời, vương triều Trần đã lãnh đạo nhân dân làm nên chiến thắng vẻ vang trước đội quân mạnh mẽ nhất thế giới lúc đó. Điều này chứng tỏ tài năng và uy tín của vương triều đối với nhân dân. Và trong trận thử sức đầu tiên đó, quân và dân Thăng Long đã anh dũng chống giặc, đóng góp rất lớn vào chiến thắng chung của đất nước. Chiến thắng năm Nguyên Phong- 1258 nói chung, chiến thắng Đông Bộ Đầu nói riêng sẽ mãi mãi bất hủ.
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất đã để lại những ấn tượng, những bài học sâu sắc trong nhiều thế hệ sau. Mãi đến cuối thế kỷ XIII, vua Trần Nhân Tông còn viết:
“Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”
Dịch:
“Người lính già đầu bạc
Mãi kể chuyện Nguyên Phong”.
Chiến thắng Đông Bộ Đầu, chiến công năm Nguyên Phong thứ 7 (1258) được nhắc đi nhắc lại trong quân đội đời Trần, vang vọng mãi trong lịch sử kinh thành Thăng Long. Đó là niềm tự hào và sự cổ vũ lớn lao của quân dân Thăng Long và cả nước. Trận đánh này là trận quyết chiến chiến lược, có tác dụng vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự nghiệp bảo vệ đất nước thời Trần và để lại nhiều giá trị trong di sản văn hóa dân tộc.
Nguyễn Thúy (tổng hợp)
Nguồn tư liệu:
1. Từ điển Bách khoa Tri thức quốc phòng toàn dân: H: Chính trị Quốc gia, 2002.
2. Lê Đình Sỹ: Thăng Long Hà Nội. Những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm.
3. Trần Hồng Đức: Lược sử Việt Nam.