Khởi nghĩa Bắc Sơn báo hiệu thời kỳ đấu tranh vũ trang của cách mạng Việt Nam. Nhận thấy sự tan rã của chính quyền thực dân sau khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, quân Pháp thất bại và đầu hàng, Đảng bộ Bắc Sơn đã phát động quần chúng nổi dậy cướp chính quyền, tấn công các đồn bốt và các đơn vị lính Pháp đang rút chạy, cướp vũ khí, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
Lúc bấy giờ, Pháp đã đầu hàng phát xít Đức ở chính quốc, thực dân Pháp ở Đông Dương rất hoang mang dao động. Khi quân Nhật tiến vào Lạng Sơn, chính quyền tay sai Pháp đã tan rã nhanh chóng. Chớp thời cơ đó, đảng bộ địa phương đã phát động khởi nghĩa.
Đồng chí Trần Đăng Ninh (1910-1955), một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn.
20 giờ ngày 27-9-1940, hơn 600 quân khởi nghĩa, gồm đủ các dân tộc Tày, Dao, Nùng, Kinh đã tấn công đồn Mỏ Nhài (châu lỵ Bắc Sơn), viên tri châu chạy trốn, ngụy quyền tan rã, nhân dân làm chủ châu lỵ và các vùng trong châu. Đội du kích địa phương được thành lập. Sau khi chiếm châu lỵ, Ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ. Các ngày 28, 29-9-1940, quân khởi nghĩa tiếp tục tấn công vào tàn quân Pháp ở đèo Canh Tiêm, Sập Dì. Trước tình hình đó, Pháp, Nhật thỏa hiệp với nhau để tập trung đàn áp cuộc khởi nghĩa. Thực dân Pháp đưa quân lên chiếm lại các đồn và đàn áp dữ dội. Ngay sau khi được tin cuộc khởi nghĩa nghĩa bùng nổ, Xứ Bắc Kỳ đã cử đồng chí Trần Đăng Ninh lên lãnh đạo phong trào và hướng cuộc khởi nghĩa vào mục tiêu xây dựng lực lượng để chiến đấu lâu dài. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, khu căn cứ du kích Bắc Sơn được thành lập trên địa bàn các xã Vũ Lăng, Vũ Lễ, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, Hữu Vĩnh, Trấn Yên. Giữa tháng 10-1940, Ban chỉ huy khu căn cứ Bắc Sơn được thành lập và ngày 16-10-1940, cuộc họp tại khu rừng Tân Hương đã quyết định thành lập đơn vị du kích Bắc Sơn đầu tiên do đồng chí Trần Đăng Ninh làm chỉ huy trưởng. Ngày 28-10-1940, quần chúng cách mạng đang tổ chức mít tinh ở Vũ Lăng, chuẩn bị đánh chiếm lại đồn Mỏ Nhài thì bị quân Pháp tấn công. Hội nghị lần thừ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11-1940) đã quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn làm nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Chiến khu Bắc Sơn- Võ Nhai ra đời, rồi mở rộng ra từ huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), huyện Võ Nhai (Thái Nguyên) đến huyện Phú Lương, Định Hóa, Đại Từ ( Thái Nguyên), Sơn Dương (Tuyên Quang) và Chợ Đồn (Bắc Kạn), góp phần quan trọng trong việc xây dựng khu giải phóng của Đảng trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Đội du kích Bắc Sơn được thành lập.
Mặc dù bị đàn áp dã man nhưng cuộc khởi khởi nghĩa Bắc Sơn đã đánh dấu sự chuyển hướng của cách mạng Việt Nam từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang, nhờ những kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa đã góp phần tạo ra cuộc vận động cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn là thắng lợi đầu tiên của khởi nghĩa vũ trang cách mạng kể từ khi Đảng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong những năm 1939-1940, thành lập chính quyền nhân dân đầu tiên trong cả nước, hình thành đội du kích Bắc Sơn, tiền thân của đội Cứu quốc quân số 1, tiến tới xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn có tác động, ảnh hưởng tới phong trào cách mạng của cả nước và trở thành một sự kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Quang Hưng (tổng hợp)