Bảo Đại là Hoàng đế thứ 13 của triều Nguyễn, đồng thời cũng là nhà vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Vua Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (con độc nhất của vua Khải Định và bà Từ Cung Hoàng Thái Hậu), sinh ngày 23 tháng 9 năm Quí Sửu (tức ngày 22 tháng 10 năm 1913). Năm 1922 ông sang Pháp học, cuối năm 1925 ông về nước để tang vua Khải Định, đầu năm 1926 ông lên ngôi, niên hiệu là Bảo Đại và sang Pháp học tiếp. Năm 1932 vua Bảo Đại về nước, ban hành ra đạo dụ số một tuyên cáo chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ Nam triều. Năm 1933, Bảo Đại cho ban hành một loạt chính sách cải cách, nhưng mọi cố gắng của vua mới không đạt được kết quả gì.

Hoàng đế Bảo Đại (1926-1945), nhà vua cuối cùng của nhà Nguyễn.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, đã đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân Pháp cùng phát xít Nhật ở Việt Nam. Đồng thời ngày 30 tháng 8 năm 1945 cũng là ngày cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Cùng với đồng bào cả nước, nhân dân thành phố Huế đã bước vào những ngày tháng Tám sục sôi khí thế cách mạng, đặc biệt là đã trực tiếp chứng kiến giờ phút cuối cùng của Vương Triều Nguyễn.
Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên do nhà thơ Tố Hữu làm Chủ tịch đã họp và ra quyết định khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế. Ngày 23 tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên đã trao Tối hậu thư cho Hoàng đế Bảo Đại, yêu cầu Hoàng đế thoái vị và tuyên bố chế độ quân chủ chuyên chế ở Việt Nam cáo chung. 13 giờ 30 phút cuộc biểu tình lớn có vũ trang với sự tham dự của người dân Thừa Thiên - Huế, đã diễn ra. Chính quyền nhân dân được thành lập ở tỉnh Thừa Thiên. Sau ngày đó, chính quyền nhân dân ở tỉnh Thừa Thiên đã đánh điện ra Hà Nội báo cáo và đề nghị Chính phủ Lâm thời Trung ương cử đại biểu vào Huế công nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đoàn công tác Chính phủ có 3 người gồm các ông: Trần Huy Liệu (làm trưởng đoàn); Nguyễn Lương Bằng; Cù Huy Cận vào Huế làm nhiệm vụ.

Ông Trần Huy Liệu, trưởng đoàn công tác thay mặt Chính phủ lâm thời Trung ương công nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại.
Ngày 29 tháng 8 năm 1945, tại điện Kiến Trung, vua Bảo Đại đã tiếp kiến phái đoàn Chính phủ và nhận những điều khoản cùng nội dung nghi thức thoái vị do phái đoàn đề ra.
Chiều ngày 30 tháng 8 năm 1945, lễ thoái vị được cử hành tại cửa Ngọ Môn, trước sự chứng kiến của hàng vạn đồng bào. Hoàng đế Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam mặc triều phục, đọc Chiếu thoái vị (đã được viết vào ngày 25/8/1945), xin được làm công dân của nước Việt Nam độc lập và dân chủ và trao ấn vàng cùng thanh kiếm vàng lạm ngọc của Hoàng triều cho ông Trần Huy Liệu (trưởng phái đoàn). Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố chấp nhận vua Bảo Đại thoái vị. Trong lúc đó cờ quẻ ly của nền quân chủ từ từ hạ xuống, lá cờ đỏ sao vàng năm cánh được kéo lên thay thế. Lễ thoái vị kết thúc. Nền quân chủ chuyên chế trong lịch sử dân tộc Việt Nam chính thức chấm dứt.
Nội dung của Chiếu thoái vị: “Vì hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, vì nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Để đạt được hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hi sinh tất cả và ước mong rằng sự hi sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc.
Nhận định rằng sự đoàn kết của toàn thể đồng bào chúng ta vào giờ phút này là một sự cần thiết cho Tổ quốc chúng ta. Trẫm nhắc lại cho toàn thể nhân dân ta là: Ở giờ phút quyết định này của Lịch sử, đoàn kết có nghĩa là sống, mà chia rẽ là chết.
Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm e ngại rằng một sự tranh chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm đợi sau cuộc trưng cầu dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc tranh chấp đó, đưa cả nước vào sâu hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng. Trẫm không thể ngậm ngùi khi nghĩ đến các tiên đế đã chiến đấu trên bốn trăm năm để mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa đến Hà Tiên. Trẫm không khỏi tiếc hận là trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm không thể đem lại lợi ích gì đáng kể cho đất nước. Mặc dù vậy, và vững mạnh trong sự tin tưởng của mình, Trẫm quyết định thoái vị và Trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa.
Trước khi từ giã ngai vàng, Trẫm chỉ có ba điều muốn nói:
Thứ nhất: Trẫm yêu cầu tân chính phủ phải giữ gìn lăng tẩm và miếu mạo của hoàng gia.
Thứ hai: Trẫm yêu cầu tân chính phủ lấy tình huynnh đệ đối xử với các đảng phái, các phe nhóm, các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước, mặc dù không theo cùng phương hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp cho họ được tham gia vào sự kiến thiết đất nước và chứng tỏ rằng tân chế độ đã xây dựng trên tình đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân.
Thứ ba: Trẫm yêu cầu tất cả các đảng phái, các phe nhóm, tất cả các tầng lớp xã hội cũng như toàn thể hoàng gia phải đoàn kết chặt chẽ để hậu thuẫn vô điều kiện cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa, hầu củng cố nền độc lập quốc gia.
Riêng về phần Trẫm, trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải qua bao nhiêu đắng cay, Trẫm muốn được làm Dân ở một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là dân tụ do, trong một nước độc lập. Trẫm không để cho bất cứ ai lợi dụng danh nghĩa Trẫm hay danh nghĩa hoàng gia để reo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta.
Việt Nam độc lập muôn năm,
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm.
Huế, điện Kiến Trung ngày 25 tháng 8 năm 1945”
Tại buổi lễ thoái vị, Hoàng đế Bảo Đại đã tuyên bố một câu nói nổi tiếng “Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”. Ông thoái vị lúc 32 tuổi và làm vua được 19 năm.\.
Lê Thị Huệ (tổng hợp)