Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên chiến trường Miền Nam đã diễn ra rất nhiều cuộc chiến, giao tranh ác liệt giữa quân giải phóng Miền Nam và quân dội Mỹ. Chiến thắng Vạn Tường (18/8/1965) là một trong nhiều cuộc chiến như vậy. Trải qua 48 năm sau ý nghĩa của chiến thắng này vẫn còn nguyên giá trị.
Sau thất bại nặng nề của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), Mỹ tiếp tục thi hành một chiến lược chiến tranh mới với tên gọi “chiến lược chiến tranh cục bộ” (1965-1968). “Chiến lược chiến tranh cục bộ” bắt đầu từ giữa năm 1965, là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới, một trong ba hình thức chiến tranh (đặc biệt, cục bộ, tổng lực) được đề ra phù hợp với chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt”. Lực lượng tham gia là quân viễn chinh Mỹ, quân của một số nước thân Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và ngụy quân, trong đó quân Mỹ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị.
Dựa vào ưu thế về quân sự với đội quân đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, Mỹ vừa mới vào Miền Nam đã cho quân viễn chinh mở ngay cuộc hành quân “tìm diệt”, tiến công đơn vị quân giải phóng ở Vạn Tường – Quảng ngãi. Tiếp đó, Mỹ mở liền hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 bằng hàng loạt cuộc quân đánh vào “đất thánh Việt Cộng”.
Vạn Tường là một làng quê ven biển rộng khoảng 4 km2, thuộc xã Bình Thiện, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Vạn Tường cách căn cứ Chu Lai 17 Km về phía đông Nam. Nằm trong vùng giải phóng của Quảng Ngãi, Vạn tường được xây dựng thành làng chiến đấu và đã đứng vững trước thử thách ác liệt trong thời kỳ “chiến tranh đặc biệt”. “Lực lượng được Mỹ bổ sung cho chiến dịch này lên đến khoảng 9000 quân, gồm ban chỉ huy quân đoàn 7 thuộc sư đoàn lính thủy đánh bộ, 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, 2 tiểu đoàn bộ binh ngụy, một tiểu đoàn xe tăng và xe lội nước, một số lượng pháo binh và công binh… ngoài ra chúng còn huy động 6 tàu đổ bộ, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay chiến đấu vào cuộc càn quét”.

Máy bay trực thăng vận tải H34 và xe tăng M48 của quân Mỹ trong trân Vạn Tường, năm 1965.
Đêm 17/8 địch huy động 6 tàu đổ bộ, 5 tàu chiến đến ngoài biển, từ thôn Thanh Thủy đến An Cường bắn đại bác vào Vạn Tường, dọn đường cho cuộc hành quân.
Ngày 18/8 Mỹ đã chia thành 3 cánh quân ồ ạt tấn công. Cánh quân thứ nhất từ căn cứ Chu Lai bí mật vượt sông Trà Bồng đánh vào phía Bắc thôn Vạn Tường. Cánh quân thứ hai cũng từ Chu Lai theo quốc lộ 1 đánh vào thôn Phổ Tịnh, phối hợp với 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đổ bộ thẳng đứng bằng máy bay lên thẳng xuống khu vực nam Phổ Tịnh và Ngọc Hương, Lộc Tự, bịt một vòng cung phía tây thôn Vạn Tường. Cánh quân thứ ba từ tàu chiến đổ bộ lên bãi biển thôn An Cường đánh vào Gò Đam, An Thái, bịt chặt mặt đông thôn Vạn Tường. Với thế tấn công đó, tường Cơrulắc, chỉ huy lính thủy đánh bộ ở Việt Nam đã nhận xét rằng “Đối phương không thể nào chịu nổi hỏa lực của ta” “một cái bẫy kín hoàn toàn, chỉ cần khép lại là Việt Công không ai có thể lọt ra ngoài được”, chúng tin rằng sẽ xóa sổ được Trung đoàn chủ lực của ta ở Vạn Tường.
Về phía ta khi xác định được địch, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 1 có mặt tại vạn tường đều xác định bám trụ để chiến đấu. Ngay trong sáng ngày 18/8 cánh quân Mĩ từ tàu chiến đổ bộ lên bãi biển An Cường đã bị mìn định hướng của tổ công binh, Trung đoàn 1 diệt tốp đầu. Cùng lúc đó, ở phía bắc Vạn Tường, đại đội 21 của đội du kịch Bình Thiện chặn đánh cánh quân Mỹ vượt sông Trà Bồng và dùng cối bắn vào bãi đổ bộ của quân địch bằng máy bay lên thẳng ở cánh đồng Lộc An, diệt 8 máy bay đang hạ cánh.
Trong khi hai cánh quân của Mỹ ở hướng đông và bắc bị quân ta đánh chặn, thì từ Vạn Tường tiểu đoàn 40 và 60 Trung đoàn 1 xuất kích tiêu diệt 100 tên, bị ta tiến công mạnh địch rút lui và yêu cầu chi viện. Mỹ được chi viện thêm quân và xe tăng xuống làng Ngọc Hương, An Cường, Lộc Tự nhưng tất cả quân Mỹ đều bị chặn ở ngoài Vạn Tường, tình hình đó đã khiến cho chúng từ thế chủ động chuyển sang bị động.
Để cứu nguy cho lính thủy đánh bộ đang bị sa lầy, địch đã dùng pháo và tàu chiến từ các chiến trường xung quanh bắn vào Vạn Tường, kết hợp với không quân ném bom suốt ngày. Tuy nhiên mọi cố gằng của địch đều không thể mở được các cuộc tiến công vào Vạn Tường, bên cạnh đó chúng còn bị lực lượng của ta đánh từ nhiều phía buộc chúng rơi vào tình thế rất bị động.
Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, đến tối ngày 18 quân Mỹ rơi vào bị động, phải chống đỡ lúng túng. Sáng ngày 19 quân Mĩ dốc sức đánh vào Vạn Tường nhưng đã bị các chiến sĩ Trung đoàn 1, đại đội 21 và dân quân, du kịch Bình Thiện đánh thiệt hại nặng nề.

Xác xe tăng của quân Mỹ bị quân giải phóng bắn hạ trong trận Vạn Tường, năm 1965
Thất bại đó đã được phát ngôn lính thủy đánh bộ Mỹ thừa nhận là “thất bại nặng nề nhất từ trước đến nay” (AP, ngày 22/8/1965). Trận Vạn Tường mặc dù ta chưa tiêu diệt gọn tiểu đoàn của Mỹ nhưng đã mở ra khả năngthắng Mỹ của ta trong chiến lược chiến tranh cục bộ. Nói như vậy bởi vì đây là cuộc đọ sức của chủ lực ta với lực lượng chính quy Mỹ, sức mạnh và khả năng của quân đội Mỹ đã được bộc lộ. Lính thủy đánh bộ là một trong những đội quân thiện chiến của quân đội Mỹ đã được thành lập sớm nhất, đã từng chiến đấu chiến thắng trên nhiều chiến trường châu Âu và Bắc Phi. Sang Việt Nam, lính thủy đánh bộ hoàn toàn chủ động lựa chọn chiến trường có đủ điền kiện phát huy đến mức tối đa phương tiện chiến tranh và hỏa lực phối hợp để xuất quân, gây thanh thế. Đánh vào Vạn Tường Mỹ đã sử dụng phối hợp cả hai quân không quân pháo binh, xe tăng và các loại vũ khí hiện đại như súng M16, M79, đại bác tầm xa, tên lửa, bom các loại không hạn chế trong suốt cuộc giao tranh.
Chiến thắng Vạn Tường có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, là mốc son chói lọi phản ánh khí thế cách mạng tiến công, sự mưu trí, kiên cường, dũng cảm, tình đoàn kết chiến đấu của quân và dân Quảng Ngãi với bộ đội chủ lực Quân khu 5. Nếu như chiến thắng Ấp Bắc mở đầu cho cao trào diệt ngụy, thì chiến thắng Vạn Tường lịch sử mở đầu cho cao trào diệt Mỹ. Chiến thắng Vạn Tường khẳng định quân và dân ta có khả năng đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ xâm lăng, dù chúng có thể đông quân, hùng hậu về vũ khí trang bị và khả năng cơ động nhanh.

Tượng đài chiến thắng Vạn Tường
Chiến thắng Vạn Tường đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong đó nổi bật nhất là bài học lớn về phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân và sự kết hợp tác chiến giữa bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương; giữa tiến công tiêu diệt địch của lực lượng vũ trang với nổi dậy của quần chúng giành quyền làm chủ; giữa tiêu diệt chủ lực địch với chống phá “bình định”; thể hiện tư duy nhạy bén trong nghệ thuật chỉ huy, điều hành chiến dịch của Bộ Tư lệnh Quân khu 5; tinh thần chiến đấu, phục vụ chiến đấu dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân Quảng Ngãi anh hùng. Chiến thắng Vạn Tường mãi mãi đi vào lịch sử đất nước như một chiến công chói lọi của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thu Nhuần (tổng hợp)
Nguồn:
- Lê Mậu Hãn (chủ biên), “Đại cương lịch sử Việt Nam”, tập II, NXB Giáo Dục, 2007, tr 200-202.
- “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những mốc son lịch sử”, NBX Chính trị Quốc gia, 2012, tr 75-82.
- “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại, tập III 1965-1968”, NXB Sự Thật, 1975, tr 329-332.