Trước việc nghi binh của ta, địch đã vội vã rút Trung đoàn 45 đang lùng sục ở Cẩm Ga, Thuần Mẫn về Thanh An để đối phó; Trung đoàn 44 cùng một số liên đoàn quân biệt động cũng bị tiêu hao nặng buộc phải nằm chết gí ở Plei-cu.
Do giữ được bí mật ý đồ hành động và cũng do ta nghi binh có kết quả nên địch trở nên lúng túng. Chúng vẫn phán đoán ta đánh thật vào Plei-cu hoặc Kon Tum.
Mặt khác, ngày 4.3.1975, ta cho Trung đoàn 95A do đồng chí Nguyễn An làm trung đoàn trưởng cắt đường 19-con đường nối Quy Nhơn với Plei-cu đoạn đèo Măng Giang cách Plei-cu khoảng 50km. Sư đoàn 3 Quân khu 5 cắt đoạn đèo Thượng An đến cầu số 13, thế là ngay trong ngày đầu chiến dịch, huyết mạch chính nuôi sống Plei-cu, Kon Tum của địch bị cắt.
|
Quân giải phóng trong Chiến dịch Tây Nguyên. (Ảnh tư liệu). |
Đêm mồng 4 rạng sáng ngày 5.3, Trung đoàn 25 ở Chư Cúc đã đánh chiếm và giữ một số đoạn trên đường 21 nối Ninh Hòa với Buôn Ma Thuột. Con đường quan trọng thứ hai của địch nối Tây Nguyên với đồng bằng duyên hải bị cắt đứt. Trên đường số 14, ngày 7.3, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 chiếm Chư Sê, ngày 8.3 đánh chiếm Thuần Mẫn. Trục đường nối nam bắc Tây Nguyên của địch cũng bị cắt làm đôi. Trong khi thực hiện chia cắt địch, ta đẩy mạnh hoạt động nghi binh của Sư đoàn 968 nhằm giữ khối chủ lực của địch ở bắc Tây Nguyên, đồng thời đưa các đơn vị đánh Buôn Ma Thuột vào vị trí tập kết cuối cùng. Đến ngày 9-3, khi địch vẫn đinh ninh mục tiêu chính của ta là Plei-cu, Kon Tum thì 12 trung đoàn bộ binh và đơn vị binh chủng của ta đã triển khai xung quanh Buôn Ma Thuột, lúc này đã hoàn toàn bị bao vây cô lập.
Ngày 10.3.1975, lúc hai giờ sáng, ta nổ súng tiến công thị xã Buôn Ma Thuột. Để nghi binh thu hút sự chú ý của địch, bộ đội đặc công và pháo binh nổ súng đánh sân bay Hòa Bình, hậu cứ Trung đoàn 53, khu kho Mai Hắc Đế. Trong đêm, lợi dụng điện trong thành phố lúc tắt, lúc sáng, tiếng súng và sự hỗn loạn của địch, các loại xe pháo, xe tăng, ô tô chở bộ binh của ta từ năm hướng tiến công thị xã. Cái mới trong trận này là ta dùng đặc công dã chiến đánh Sân bay Hòa Bình (đặc công được trang bị súng máy, B40 và cả tên lửa phòng không vác vai) và trụ lại sân bay để đợi bộ binh. Vũ Thế Quang, Sư đoàn phó Sư đoàn 23, Chỉ huy trưởng Buôn Ma Thuột, sau khi ta đã đánh các vị trí trên vẫn phán đoán ta đánh như những ngày thường, đánh ban đêm sau đó thì rút ra. Bởi vì đêm đó ta cũng đánh Đức Lập, một căn cứ của địch nằm ở tây nam Buôn Ma Thuột giáp biên giới Cam-pu-chia.
Lúc 7 giờ sáng ngày 10.3, ta tiếp tục khai hỏa, chúng không cứu được Đức Lập. Tuy tiến công mãnh liệt, nhưng trong ngày 10.3, ta vẫn chưa dứt điểm được Buôn Ma Thuột nên đêm đó, Mặt trận phái Tham mưu trưởng vào tổ chức lại các lực lượng để hôm sau tiếp tục tổng công kích. Và 11 giờ 30 phút ngày 11.3, ta giải phóng Buôn Ma Thuột bắt sống Vũ Thế Quang, Sư đoàn phó Sư đoàn 23 và Nguyễn Văn Luật, Tỉnh trưởng Đắc Lắc.
Địch mất Buôn Ma Thuột, ta phán đoán, chúng nhất định dùng Sư đoàn 23 phản kích chiếm lại bởi vì đây là vị trí chính trị của Tây Nguyên. Mặt khác, lần đầu tiên mất một thị xã 12 vạn dân có ý nghĩa, chính trị, kinh tế, văn hóa lớn. Địch chỉ có cách phản kích, đi đường bộ từ Plei-cu lên với chiều dài 180km qua ba đèo hiểm trở, trong khi ta đã cho Sư đoàn 320 chốt các đèo đó thì Sư đoàn 23 không thể đi được.
Và là sự thật hiển nhiên, địch chỉ còn cách hạ cánh bằng máy bay lên thẳng để đưa Sư đoàn 23 ngụy xuống phía đông Buôn Ma Thuột mà thôi. Mặt khác, Bộ tư lệnh chiến dịch đã tổ chức cho bộ đội chiếm ngay các căn cứ: 45, Buôn Hồ, Đại Lý, Chu Bao, phá các bàn đạp phản kích của địch xung quanh Buôn Ma Thuột. Đường 14, đường 21 bị cắt, các bàn đạp của địch ở xung quanh Buôn Ma Thuột đã bị mất.
Ta xác định địch không thể đi đường bộ được và nếu có đi được cũng phải mất hàng tháng thì đối phương đã củng cố trận địa rồi, khó lòng đánh được. Vả lại, đi cứu viện là đi chữa cháy phải nhanh không thì khó mà cứu được. Nên chỉ còn cách đi trực thăng. Trong gạn lọc tình huống, thì chỉ còn tình huống đó là có khả năng thực hiện được. Phán đoán như vậy, đi đôi với việc xử lý các tình huống khác, ta tập trung vào xử lý tình huống với Sư đoàn 23, cho Sư đoàn 10 từ Đức Lập cơ động khẩn cấp về phía đông bắc Buôn Ma Thuột để chuẩn bị đánh Sư đoàn 23 phản đột kích. Tư lệnh mặt trận quyết định luôn để đơn vị thực hiện kịp mệnh lệnh.
Ngày 12.3, địch đi đúng vào kế hoạch và sa vào thế trận của ta, các Trung đoàn 44 và 45, Sư đoàn 23 đổ bộ xuống đông Buôn Ma Thuột (khu vực Nông Trại, Phước An trên đường 21). Chúng chỉ có thể đổ xuống phía đông, vì phía tây quân ta đang chốt giữ và phía đông nếu không đánh được chúng sẽ rút chạy về Nha Trang. Ta phán đoán đúng. Lực lượng địch không có xe tăng, không có pháo lớn, ở thế bất lợi nên đã bị Sư đoàn 10 của ta phối thuộc xe tăng và pháo binh, lần lượt tiêu diệt trong các ngày từ 14 đến 18.3. Sau khi ta đánh tan Sư đoàn 23, địch “nhắm mắt” đưa một lữ đoàn dù bỏ Đà Nẵng về bảo vệ đèo Phượng Hoàng hòng ngăn chặn ta tiến xuống Nha Trang. Ta cho Sư đoàn 10 chuẩn bị đánh lữ đoàn dù nói trên trên đường Buôn Ma Thuột - Nha Trang.
Đèo Phượng Hoàng nằm ở phía tây Ninh Hòa, Sư đoàn 10 do đồng chí Hồ Đệ chỉ huy, có đồng chí Vũ Lăng, Phó tư lệnh đi trực tiếp với sư đoàn. Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chỉ thị cho Sư đoàn 10 không đánh ngay lữ dù mà phải vây xong mới đánh, địch sẽ rất dễ tan vỡ. Sư đoàn 10 làm đúng như thế và sau hai ngày vây ép địch, sư đoàn đã tiến công Nha Trang - Cam Ranh, chia cắt miền Nam làm đôi.
Trận Buôn Ma Thuột là trận then chốt, đánh bại Sư đoàn 23 là trận then chốt thứ nhất, đánh phản kích là trận then chốt thứ hai, hai trận then chốt này tạo thành trận then chốt quyết định làm chuyển biến cục diện chiến trường Tây Nguyên, địch hết biện pháp đối phó. Giữ không được, đánh vận động cũng không xong, đành phải rút khỏi Tây Nguyên, tạo ra đột biến chiến dịch. Kon Tum, Plei-cu không đánh mà được giải phóng. Sau khi mất Buôn Ma Thuột, Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Việt Nam cộng hòa quyết định "Tùy nghi di tản" là hoàn toàn sai lầm về chiến lược.
Trước khi đi chuẩn bị chiến dịch, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã dặn Tư lệnh Mặt trận: "Nếu ta đánh mạnh, thắng lớn ở Tây Nguyên thì địch có thể co về giữ đồng bằng". Tâm đắc điều này, Thượng tướng thấy, phán đoán của Tổng Tư lệnh thể hiện một nhãn quan chiến lược thật tài tình. Và thế là Sư đoàn 320 được tăng cường Trung đoàn 95B, một tiểu đoàn thiết giáp và một bộ phận pháo binh nhanh chóng chặn địch rút chạy trên đường 14 khu vực gần tiếp giáp với đường 7. Khi nhận được lệnh, đại bộ phận sư đoàn đang đứng chân ở khu vực Cẩm Ga trên đường số 14 cách Cheo Reo khoảng 50km đã đưa Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64 nhanh chóng vượt lên trước bằng “đôi chân vạn dặm” để chặn địch. Chiều ngày 17, Tiểu đoàn 9 đã ra đến đường 7, đông Cheo Reo 4km, xây dựng một điểm chốt cắt ngang đội hình địch. Một khối lượng lớn quân địch buộc phải cụm lại ở Cheo Reo, Phú Thiện. Chủ lực ta ở phía sau có pháo binh và thiết giáp hỗ trợ nhanh chóng bám sát địch, triển khai đội hình tiến công, đập tan cụm quân này vào các ngày 18 và 19.3. Đồng thời Bộ tư lệnh Mặt trận điện cho Quân khu 5 cho lực lượng địa phương Phú Yên ra chặn địch rút chạy từ Plei-cu về Tuy Hòa. Trong khi Sư đoàn 5 của Quân khu 5 phối hợp đánh địch ở đèo An Khê và sau đó Trung đoàn 95A đánh Sư đoàn 22 địch ở Phú Phong, thì trung đoàn địa phương của Bình Định lợi dụng thời cơ vào giải phóng thị xã Quy Nhơn.
Như vậy, chia cắt giao thông, bố trí Sư đoàn 320 ở thế tiện cơ động, nhanh chóng tổ chức bộ phận gọn nhẹ vượt lên trước chặn đội hình địch là các hoạt động tạo thế, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của trận then chốt thứ ba: Tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch rút chạy trên đường số 7, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Tây Nguyên.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã làm rung chuyển, đảo lộn cả thế trận của địch và tạo cho ta phát triển vô cùng thuận lợi, biến thắng lợi chiến dịch thành thắng lợi chiến lược, tạo ra cục diện mới của chiến lược, thúc đẩy chiến tranh chuyển biến rất nhanh chóng có lợi cho ta.
Lúc sinh thời, nhân kỷ niệm Chiến thắng Buôn Ma Thuột, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Chính ủy Chiến dịch Tây Nguyên cũng tâm niệm và nhắc lại: Chiến thắng Buôn Ma Thuột mãi mãi là dấu son trên trang sử vẻ vang của quân đội ta. Nó là kết quả của cả một quá trình chuẩn bị lâu dài của quân và dân Tây Nguyên. Nếu chúng ta đều biết tới hình ảnh từng đoàn dân công gồm cả người già, trẻ em của các buôn làng đã đi gùi đạn, gùi gạo, mở đường cho chiến dịch; nếu chúng ta biết tới những đồng chí cán bộ của Đảng đã từng cà răng căng tai, sống hàng vài chục năm với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên để bám dân, bám đất xây dựng địa bàn, xây dựng chỗ cho chúng ta đứng chân mà đánh giặc; nếu chúng ta biết rằng trước khi chúng ta có xe pháo mà mở những trận đánh lớn như vậy đã có hàng ngàn đồng chí đi trước mở đường, mở địa bàn, giành đi giật lại với địch từng tấc đất trong điều kiện đói cơm, rách áo, thiếu thuốc men, thiếu vũ khí kéo dài hàng chục năm ròng để chúng ta có những quân hùng tướng mạnh mà đánh địch với thế mạnh như chẻ tre. Nếu chúng ta biết một cách đầy đủ tất cả những gì diễn ra trước khi có trận Buôn Ma Thuột, có mùa xuân cao nguyên 1975, thì chúng ta càng thấy tự hào hơn về Đảng ta, nhân dân ta và quân đội ta...
Chiến tranh đã đi qua hơn ba mươi năm, hai vị lão tướng Hoàng Minh Thảo và Đặng Vũ Hiệp đã đi xa. Nhớ lại chiến dịch Tây Nguyên lịch sử, xin thắp một nén tâm nhang kính cẩn nghiêng mình trước hai lão tướng. Các ông còn mãi với Tây Nguyên với Buôn Ma Thuột thân yêu.
Theo QĐNDO