Từ đầu tháng 2 năm 1929, nhân vụ án Bandanh, thực dân Pháp ra sức truy lùng bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hàng loạt các cơ sở cách mạng của Việt Nam quốc dân Đảng (VNQDĐ) ở Hà Nội và các tỉnh. Số phận của VNQDĐ đang mấp mé bên bờ vực thẳm.
Trước tình thế nguy cấp, những người lãnh đạoTổng bộ cho rằng không thể cứ ngồi yên chịu chết, mà phải đứng lên sống mái với quân thù. Từ cách nhìn nhận đó, Nguyễn Thái Học đã quyết định triệu tập hội nghị đại biểu toàn quốc của VNQDĐ ngày 17-9-1929 tại Lạc Đạo (Hải Dương) để bàn bạc và thống nhất kế hoạch khởi sự. Trong hội nghị này, xuất hiện hai phái: phái cải tổ và phái khởi nghĩa. Phái chủ trương khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu chiếm ưu thế trong hội nghị đại biểu toàn quốc, VNQDĐ còn tổ chức một cuộc họp nữa ở Bắc Ninh để hoạch định thời gian và phương thức tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch đã được thống nhất, VNQDĐ sẽ tổ chức khởi nghĩa và cùng một lúc đánh vào các đô thị lớn là những trung tâm quân sự Pháp. Lực lượng khởi nghĩa chủ yếu gồm anh em binh lính là người của Đảng trong quân đội Pháp, đồng thời phối hợp với lực lượng của Đảng ở bên ngoài. Vũ khí một phần do các cơ sở của Đảng chế tạo, phần còn lại cướp từ tay giặc. Thời gian khởi nghĩa ấn định vào ngày 9/2/1930. Theo sự phân công của Đảng, Nguyễn Thái Học trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh là Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An; còn Nguyễn Khắc Nhu chịu trách nhiệm tổ chức cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh trung du là Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái. Ngay sau hội nghị, công tác chuẩn bị khởi nghĩa đã được triển khai ở các địa phương. Các xưởng chế bom tại Bắc Ninh, Phú Thọ, Hải Dương sản xuất được hàng nghì quả bom xi măng, một số nơi còn tổ chức rèn dao, kiếm, mã tấu đưa đi cất dấu ở những nơi kín đáo chờ ngày khởi sự. Giữa lúc công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đang được tiến hành khẩn trương thì xảy ra một số biến cố gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của VNQDĐ. Điển hình là vụ nổ bom do sơ suất khi chế tạo đã làm chết 3 đảng viên VNQDĐ ở Bắc Ninh (ngày 8/9/1929), và nhất là vụ phản bội của Phạm Thành Dương (Đội Dương) ngày 25/12/1929 tại hội nghị Võng La (Phú Thọ). Những sự cố này đã buộc thực dân Pháp cảnh giác, tăng cường các cuộc lùng sục, khủng bố, đẩy VNQDĐ đến nguy cơ khởi nghĩa sớm.

Nguyễn Thái Học (1902-1930), lãnh tụ của VNQDĐ, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Để đối phó với tình hình trên, ngày 26/1/1930, Nguyễn Thái Học triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại làng Mỹ Xá (Nam Sách, Hải Dương) để khẳng định lại chủ trương khởi nghĩa, đồng thời kiểm tra và thúc đẩy tiến độ thực hiện các công việc chuẩn bị khởi nghĩa. Trên cơ sở phân tích tình hình của Đảng, Nguyễn Thái Học nhận xét “Đảng chúng ta có thể tiêu ma hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi người của đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dần, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam, âu là chết đi để trở thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thì cũng thành nhân”. Căn cứ vào kết quả chuẩn bị khởi nghĩa ở các địa phương, Nguyễn Thái Học đã bàn bạc với các đồng chí, quyết định hoãn thời gian khởi nghĩa ở 3 tỉnh miền xuôi đến ngày 15-2-1930. Đúng như kế hoạch đã định, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-2-1930, cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ ở Yên Bái. Quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính cơ số 5 và cơ số 6, giết được một số sĩ quan và hạ sĩ quan người Pháp. Nhưng họ vẫn không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh, và không làm chủ được tình hình chiến sự ở Yên Bái. Sáng 10/2/1930, thực dân Pháp tập trung lực lượng (có máy bay yểm trợ) tổ chức phản công chiếm lại các căn cứ bị mất, đẩy nghĩa quân vào tình trạng tan rã. Cũng đêm 9/2/1930, Phạm Khắc Nhu dẫn một toán quân đến đánh đồn Hưng Hóa, nhưng không đạt kết quả. Sáng hôm sau, quân Pháp từ Phú Thọ kéo lên phản công quyết liệt, quân khởi nghĩa bị đàn áp, Nguyễn Khắc Nhu bị thương, sau đó tự sát để giữ tròn khí tiết.

Nguyễn Khắc Nhu (1882-1930), một trong những trụ cột của VNQDĐ.
Tại Sơn Tây, cuộc tấn công đồn chùa Thông cũng không giành được thắng lợi do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ. Sáng 10/2/1930, người phụ trách khởi nghĩa ở đây là Phó Đức Chính đã bị bắt. Cuộc khởi nghĩa còn nổ ra ở một số nơi khác như Sơn Tây, Phả Lại, Vĩnh Bảo (Hải Dương); Kiến An, Phụ Dực (Thái Bình) trong đêm 14 rạng ngày 15 nhưng đều không thu được kết quả, nghĩa quân nhanh chóng tự giải tán trước khi bị quân Pháp phản công. Tại Hà Nội ngay trong đêm 10/2/1930, một số đảng viên VNQDĐ do Đoàn Trần Nghiệp chỉ huy đã tổ chức ném bom vào nhà tên Giám đốc Sở mật thám Amoux, vào nhà tù Hỏa Lò và Sở cảnh sát nhưng không gây thiệt hại đáng kể gì.

Lược đồ cuộc khởi nghĩa Yên Bái 2/1930
Sau đó Đoàn Trần Nghiệp bị truy nã, bị bắt ở Nam Định và bị hành quyết ở Hà Nội. Thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Sau khi bắt được một loạt các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, thực dân Pháp đưa 87 người lên Yên Bái xét xử vào ngày 23/3/1930 và 13 người trong đó bị xử án tử hình gồm: Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Bùi Tử Toàn, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn An, Đào Văn Nhít, Ngô Văn An, Nguyễn Văn Toàn… Thực dân Pháp còn ném bom triệt hạ làng Cổ Am, huyện Vĩnh Lạc, Hải Dương vì nghi đây là nơi nghĩa quân về ẩn náu.

Tượng đài kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái tại thành phố Yên Bái
Tuy thất bại nhưng cuộc khởi nghĩa Yên Bái với những hành động quả cảm của các nghĩa quân VNQDĐ đã thể hiện tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của dân tộc ta, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng chứng tỏ sự bột phát, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản và cũng từ đó VNQDĐ hoàn toàn tan rã, khuynh hướng cách mạng dân tộc hoàn toàn thất bại, hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Ngọn cờ cách mạng đã chuyển sang tay giai cấp vô sản. Từ đây trở đi, trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc chỉ là những phong trào do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Chu văn Lộc - Hoàng Ngọc Chính (Tổng hợp)