Thứ Hai, 10/02/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

21/03/2011 09:36 8561
Điểm: 4/5 (4 đánh giá)
Trong 9 vị vua nhà Lý, 8 vị được thờ tại đền Đô ở Đông làng Cổ Pháp (cũ) để ngày ngày đón ánh bình minh; còn vua bà Lý Chiêu Hoàng tại đền Rồng ở phía tây để hoàng hôn rọi vào.
Trong 9 vị vua nhà Lý, 8 vị được thờ tại đền Đô ở Đông làng Cổ Pháp (cũ) để ngày ngày đón ánh bình minh; còn vua bà Lý Chiêu Hoàng tại đền Rồng ở phía tây để hoàng hôn rọi vào.

Tuy là một vị vua chính thức của vương triều nhà Lý, một vương triều rực rỡ của nước Đại Việt, nhưng Lý Chiêu Hoàng đã không được sử sách công nhận một cách công bằng.

Nhiều giả thuyết

Theo một số người, vì vua bà đã để mất ngôi nhà Lý, nên bị coi là mang tội với dòng họ, không được thừa nhận và phải thờ riêng. Song, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, do quan niệm trọng nam khinh nữ tồn tại trong xã hội phong kiến, bà là nữ vương nên không được thờ chung với các bậc tiên vương. "Ngôi đền được xây dựng từ thời phong kiến mang đậm ảnh hưởng của đạo Khổng, đạo Nho, vì thế, phụ nữ cũng ít được coi trọng và phải chịu nhiều thiệt thòi...", tiến sĩ Phật học Thích Đức Thiện lý giải.

GS Sử học Vũ Văn Ninh nêu quan điểm, có thể vì bà làm vua trong 2 năm, nhưng do còn nhỏ, nên không có công lao gì với đất nước. Hơn nữa, về sau bà đã nhường ngôi vua, rồi lại bị phế ngôi hoàng hậu, trở thành công chúa và cuối cùng, "xuất giá tòng phu" và không còn là người trong cung thất nhà Lý.

Tượng thờ vua bà Lý Chiêu Hoàng ở đền Rồng.

Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Thìn, Trưởng ban Tuyên truyền của đền Đô, người đã viết một số cuốn sách về các triều vua nhà Lý, đưa ra các giả thiết: Lý Chiêu Hoàng không được thờ ở đền Đô, có thể vì bà chỉ làm vua 2 năm, mà trong thời gian đó, do bà mới 7-8 tuổi, nên không nắm thực quyền. Hơn nữa, khu đất Lý Thái Tổ chọn để xây dựng đền Đô được Thiền sư Lý Vạn Hạnh cho rằng là nơi hội tụ của thiên khí, đất gối đầu của 8 con rồng, cũng là mảnh đất ở thế "Liên hoa bát diệp", tức là bông sen có 8 cánh, nên đền Đô chỉ có thể thờ có 8 vua, chứ không phải là 9 vị.

Trước đó, cũng có thông tin truyền miệng rằng, khi ở tuổi 61, Lý Chiêu Hoàng trẫm mình tự vẫn ở Thanh Hóa, rồi thi hài bà được chuyển về quê hương. Trên đường đi, qua một bãi đất thì kiệu không thể khiêng đi được nữa, nên mọi người cho rằng, đó là ý muốn của Lý Chiêu Hoàng, nên đã dựng Long Miếu thờ bà tại đó, nay gọi là đền Rồng. Tuy nhiên, câu chuyện này không thuyết phục vì không có tài liệu nào ghi chép. Hơn nữa, bà đã có những năm cuối đời hạnh phúc và bình an bên tướng Lê Phụ Trần và 2 người con thành đạt, nên chẳng có lý do gì để bà phải tự vẫn.

Vẫn có nơi thờ khác

Bằng sự cảm thông và cái nhìn cởi mở, từ xưa tới nay, nhân dân ta đánh giá cao sự cống hiến của vua bà Lý Chiêu Hoàng cho sự bình yên của đất nước. Bà được nhân dân một số nơi tôn vinh, thờ phụng.

Lý Chiêu Hoàng còn có nơi thờ ở giữa nội thành Thăng Long, đó là đền làng Yên Thành - nay là khu vực có phố Phan Huy Ích, có đoạn Nguyễn Trường Tộ, một đoạn phố Hàng Bún.

Ngoài ra, ơ thôn Thái Đường (xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) cũng có ngôi đình thờ Lý Chiêu Hoàng. Sử liệu ở làng cho thấy: vào thời Lý, đất Thái Đường nằm ở bờ Bắc sông Đuống, tiện việc giao thương, các vua Lý đã lập một vườn hoa lớn tại đây, gọi là Hoa Lâm. Tại Hoa Lâm có lập Thái Đường (ngôi nhà thờ lớn) để thờ thân mẫu Lý Công Uẩn. Bà là người họ Phạm, quê ở Thái Đường. Hàng năm, tôn thất nhà Lý đều tụ họp về đây tổ chức ngày giỗ Tổ.

Sau sự kiện Trần Thủ Độ cho “sập bẫy” ở Hoa Lâm, người Thái Đường có lập ban thờ trên nấm mồ chung của tôn thất nhà Lý. Lý Chiêu Hoàng được tôn làm thành hoàng làng. Đến thời Thành Thái (1889-1907) vì kiêng húy, Thái Đường đổi gọi là Thái Bình. Đình Thái Bình thờ bà được khởi dựng từ lâu đời. Dấu tích ngôi đình hiện nay được dựng vào năm Ất Tỵ (1905). Đình có 5 gian 2 dĩ, các cột cái, cột quân bằng gỗ lim một vòng tay ôm không hết. Ở các đầu dư chạm rồng ổ, rồng chầu. Ở gian giữa, trước hậu cung có bộ “ván thượng” dân gian quen gọi là “màn giếng” trang trí rất cầu kỳ. Hiện nay, ở hậu cung đình Thái Bình, trên ban thờ đặt ba pho tượng, ở chính giữa là tượng vua bà Lý Chiêu Hoàng; hai bên là tượng Trần Thủ Độ và Trần Cảnh. Ba pho tượng này của ông bà Bẩy (ở phố Hàng Chiều) công đức năm 1980.

Đưa Lý Chiêu Hoàng về đền Đô thờ phụng?

PGS Sử học Lê Văn Lan cho rằng, việc Chiêu Thánh lên ngôi hoàng đế, rồi lấy chồng và nhường ngôi cho chồng, đều diễn ra bằng các nghi thức Nhà nước hết sức long trọng và được chính sử ghi chép. Rõ ràng, việc bà giữ ngôi vua đã được nhà nước đương quyền thừa nhận, theo đúng các thủ tục của Nhà nước Đại Việt, được xã hội công nhận và được chính sử lưu truyền. Vì vậy, cần có cách nhìn nhận đúng đắn về việc Lý Chiêu Hoàng đã là vua của triều Lý, để đưa bà về đền Đô thờ phụng.

TS Nguyễn Đức Nhuệ, Trưởng phòng Nghiên cứu lịch sử địa phương - chuyên ngành (Viện Sử học Việt Nam), nêu ý kiến: Lý Chiêu Hoàng đã là một vị vua của triều Lý, được triều đình công nhận và chính sử còn dành hẳn một kỷ để viết về bà, do đó, việc đưa bài vị bà để thờ cùng các bậc tiên vương là việc hậu thế nên làm. Nếu lấy lý do bà là nguyên nhân thay đổi vương triều Lý để không thờ bà ở đền Đô, là không sòng phẳng.

Ngoài ra, theo các nhà nghiên cứu, nếu vì quan niệm trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến dẫn đến việc không thờ Lý Chiêu Hoàng ở đền Đô, thì giờ đây, xã hội cũ đã bị xóa bỏ, quan niệm đó cần được thay đổi hoàn toàn. Chúng ta đang sống trong thời đại bình quyền với cách nhìn lịch sử khách quan, độ lượng, mới mẻ và đúng đắn, thì lẽ nào, vẫn tiếp tục duy trì quan điểm xưa cũ, để vị vua cuối cùng của nhà Lý mãi phải chịu sự bất công?

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Chiêu Hoàng sinh vào tháng 9 năm 1218, là con gái của Lý Huệ Tông và hoàng hậu Trần Thị Dung. Vua Lý Huệ Tông nhu nhược, đã bị Trần Thủ Độ lộng quyền, ép phải đi tu. Vì không có con trai, Lý Huệ Tông phải truyền ngôi cho Lý Chiêu Hoàng, khi đó mới 7 tuổi. Một năm sau, 1225, cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh (cháu họ Trần Thủ Độ) đã được dựng lên dưới bàn tay đạo diễn của Thái sư Trần Thủ Độ và bà Trần Thị Dung. Rất chóng vánh, cuộc chuyển giao quyền lực giữa nhà Lý và nhà Trần đã diễn ra vài tháng sau đó, bằng việc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Từ vị vua, Chiêu Thánh trở thành hoàng hậu.

Được Trần Cảnh yêu thương, nhưng sau 12 năm Chiêu Thánh vẫn không có con, nên Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung đã ép Trần Cảnh phải lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Thánh và là vợ Trần Liễu, anh trai Trần Cảnh, lúc đó đang có mang 3 tháng. Chiêu Thánh lại bị giáng xuống làm công chúa. Trần Cảnh phản đối bằng cách bỏ ngôi vua lên chùa Phù Vân ở Quảng Yên, nhưng dưới sức ép của Trần Thủ Độ, cuối cùng đã phải nghe lời.

Mãi đến năm 1258, Trần Cảnh gả Chiêu Thánh cho Lê Phụ Trần, một vị tướng tài. 20 năm sống với Lê Phụ Trần, Chiêu Thánh sinh được 2 người con: con trai là Thượng vị hầu Tông, con gái là Ứng Thụy công chúa Khuê. Trong lần về thăm quê hương Cổ Pháp (Bắc Ninh), bà đã qua đời ở tuổi 61 và được thờ ở đền Rồng.

* Đền Rồng thờ Lý Chiêu Hoàng được khởi công xây dựng ở Đình Bảng từ cuối thế kỷ 13, nằm trên khu đất rộng 2 mẫu 7 sào Bắc Bộ (9300m2). Đền được kiến trúc gồm nhiều công trình, mỗi công trình có nhiều gian. Cột, sà đều bằng gỗ lim, lợp ngói mũi hài. Đền có sân rộng, hai bên có hai tòa giải vũ, phía ngoài có hai dãy nhà khách. Trong khuôn viên đền, cây cối quanh năm tỏa bóng.

Trải qua những tháng năm thăng trầm, Đền Rồng đã được trùng tu tái dựng nhiều lần. Cổng đền nay được mang dòng chữ “Long Miếu Điện”. Trong khuôn viên đền có tòa Tiền Đường 5 gian bề thế, trên đề 3 chữ “Lưu Ly Điện”. Phía sau đền là gian hậu cung, đặt điện thờ Lý Chiêu Hoàng. Tượng bà đầu đội miện Kim Khôi, mình khoác áo long bào.

Vĩnh Khang
baodatviet.vn

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

  • 12/07/2019 08:46
  • 6873

Nền độc lập dân tộc tồn tại không được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng nổ súng đánh chiếm Nam Bộ sau đó mở rộng ra cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Bài viết khác

Mộ đức vua Trần Nhân Tông hiện ở đâu?

Mộ đức vua Trần Nhân Tông hiện ở đâu?

  • 21/03/2011 08:57
  • 7075

Khi vua Trần Nhân Tông mất, sách "Đại Việt sử ký toàn thư" viết: "Ngày 3, Thượng hoàng băng ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử"; và: "Mùa thu, tháng 9, ngày 16, rước linh cữu của Thượng hoàng về chôn ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, Thái Bình ngày nay".