Cổ nhân nói: Ngũ cốc là sinh mệnh của muôn dân, vật quí báu quan trọng của quốc gia.
Cổ nhân nói: Ngũ cốc là sinh mệnh của muôn dân, vật quí báu quan trọng của quốc gia.
Xã tắc còn có nghĩa là quốc gia, Xã là đất chỉ thần đất, Tắc là lúa chỉ thần lúa, trong Từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh định nghĩa như sau:
Thuở xưa dựng nước tất quí trọng nhân dân. Dân cần có đất ở nên lập Xã để tế thần Hậu Thổ; dân cần có lúa để ăn nên lập Tắc để tế Thần Nông. Mất nước thì mất Xã Tắc, nên Xã Tắc cũng có nghĩa là quốc gia.
Người Việt rất quí thóc gạo. Ngay từ thời lập quốc lúa gạo đã được nói đến. Trong Đại Việt sử ký toàn thư tr 131, có nhắc đến năm Nhâm Tuất (2.879 năm trước Công nguyên): Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông; Thần Nông là người dạy cho dân biết cày bừa, trồng trọt thóc lúa…
|
Lễ hội Tịch điền |
Gạo nếp được đề cập trong truyện cổ tích Bánh chưng bánh dày thời Hùng Vương, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ý nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau.
Năm 111 trước Công nguyên, nước ta đã biết sản xuất lúa gạo, dùng làm quân lương. Sử xưa còn ghi lại: “Vào năm Hán Nguyên Đỉnh thứ 6: Mùa đông, Dương Bộc nhà Hán đem 9 nghìn tinh binh vây hãm Tam Hiệp, phá Thạch Môn do Lữ Gia dựng lên trên sông và cướp đi thuyền thóc của ta…”.
Các vua chúa nước ta thường hàng năm có làm lễ Tịch điền, đó là một lễ hội do nhà vua đích thân khai mạc.
Lễ Tịch điền thường được tổ chức vào mùa xuân. Trong bộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ gồm có 262 quyển thì quyển số 81 dành viết riêng về cày ruộng Tịch điền gồm có các chương: Điền lệ cày ruộng Tịch điền, công việc cày ruộng Tịch điền, lời chúc cho lúa tốt…
Nghi thức lễ Tịch điền được ghi lại dưới thời nhà Nguyễn như sau: “Giao cho bộ Lễ phụ trách, Ruộng Tịch điền gồm 12 mẫu nằm ở trong kinh thành, phía Bắc Ngự Hà. Ở đây có đàn Thần Nông, có đài quan canh để nhà vua ngự xem cày, có hệ thống nhà làm việc, nhà kho”.
Trước lễ Tịch điền, quan Phủ doãn Thừa Thiên chịu trách nhiệm chuẩn bị đầy đủ cày, bừa, thóc giống và lễ vật. Trước đó vài ngày, các quan mời vua ra tập cày trước. Sáng sớm ngày hành lễ, đám rước vua đi hành lễ đầy đủ nghi thức của hoàng đế xuất cung. Phường bát âm luôn cử khúc nghinh xuân, tiếp giá.
Mở đầu lễ Tịch điền là nghi thức quán tẩy (rửa tay). Tiếp theo là nghi thức tiến tửu (dâng rượu). Lễ tất, nhạc nổi lên. Quan bộ Lễ dẫn vua sang nhà cụ phục thay áo, đội khăn rồi ra ruộng cày. Vua cày song 3 luống thì trao cày cho quan Phủ doãn và quan Thượng thư bộ Hộ.
Sau đó, nhà vua ngự đến đài quan canh chứng kiến các quan chức, hoàng thân cày tiếp. Các hoàng thân, hoàng tử cày 10 luống, quan văn võ đại thần gồm 9 người, cày 18 luống. Phần còn lại dành cho các chức sắc, bộ lão sở tại. Mọi người cày xong, vua lên kiệu về cung ban yến cho các quan. Mùa lúa chín, quan Phủ doãng Thừa Thiên trông coi việc gặt hái cùng một quan thuộc bộ Hộ. Lúa gặt về được lựa giống để gieo và Lễ tịch điền mùa sau. Số còn lại được sử dụng cho tế lễ trong Đại Nội, tế giao, tế thần linh và lăng miếu.
Ý nghĩa của Lễ Tịch điền được vua Thiệu Trị thể hiện trong bài Thường Mậu quan canh, nhân một lần lên đài quan canh xem các quan cày ruộng:
Chót vót lầu cao giữa khoảng không
Nhìn xa quang cảnh chốn nương đồng
Ba đường dẫn lối khuyên cày cấy
Năm tháng thương người trọng việc nông.
Trong đó lời chúc cho cây lúa tốt có đoạn:
Dây thừng đỏ, bánh xe sơn màu xanh, và cày và đồ mặc, và dây cương ngựa.
Cầm cái roi ở tay đem giơ lên
Người coi việc làm ruộng bưng thúng vàng đựng thóc đồng thóc lục…
(Lúa đồng (lúa Minh Xuân), lúa thơm, lúa sản (gạo De An Cựu), lúa móng chim… cấy trước mà chín sau; Lúa lục cấy sau mà chín trước, loại lúa giống 60 ngày như: loại lúa Tẻ chín sớm, lúa Tiên ở tỉnh Thái Bình, lúa của Chiêm Thành… loại lúa 80 – 90 hoặc 100 ngày như lúa Mạn, lúa Chiêm, lúa hẻo trắng lúa lăng…).
Theo Đại Việt sử ký toàn thư tr 224: “Mùa xuân năm Đinh Hợi (987), vua Lê Đại Hành lần đầu tiên cày ruộng Tịch điền ở núi Đọi hay còn gọi là Đội Sơn ở huyện Duy Tiên (Nam Hà), được một hũ nhỏ vàng nhỏ. Năm sau, cày ở núi Bàn Hải được một hũ nhỏ bạc nên vua đặt là ruộng Kim Ngân.
Sách Việt sử lược cũng có chép sự kiện này. Vào thời Lý, vua Lý Thái Tông đã nhiều lần tự mình xuống cày. Trang 255 có ghi: “Mùa hạ tháng 4 năm Nhâm Thân (1032), vua cày Tịch điền ở Tín Hương – Đỗ Động Giang, có nhà nông dâng vua một cây lúa Chiêm có 9 bông thóc, vua xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên”. Trang 259 ghi như sau: “Mùa xuân tháng 2 năm Mậu Dần (1038), vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng Tịch điền. Vua sai hữu ty dọn cỏ đắp đàn vua thân tế Thần Nông, tế xong, vua tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng – Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế? Vua nói: Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo? Nói xong vua đẩy cày 3 lần rồi thôi”.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: “Lý Thái Tông khôi phục lễ cổ, tự mình cày ruộng Tịch điền để nêu gương cho thiên hạ, trên thì để cúng tôn miếu, dưới thì để nuôi muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến của giàu dân đông, nên thay!”.
Vua Minh Mạng ra Chiếu dụ: “… Từ khi Trẫm lên ngôi, luôn luôn nghĩ đến an dân, nên quan tâm đến việc chính này (cày ruộng tịch điền)… Vua định ngày lễ Tịch điền tháng 2… và phải xây tại ruộng Tịch điền các dinh thự là Quan Canh (nhìn cày), Cụ phục (mặc áo), đàn Tiên Nông, kho lúa dự trữ để cúng thờ (thần Thương)…”.
Giống lúa cấy trên ruộng Tịch điền được chọn để cho loại gạo ngon dùng vào việc tế lễ, đặc biệt là tế Thần Nông và thần Xã Tắc.
Lễ cày Tịch điền chấm dứt dưới thời vua Khải Định.
Theo Xưa & Nay, số 341, 10 - 2009, tr 30