Năm Kỷ Mão 1519
Vũ Kính (1519 - ?)
Người xã Lương Xá huyện Lang Tài – Nay thuộc thôn Lương Xá xã Phù Lương huyện Gia Lương tỉnh Hà Bắc. Cha của Vũ Giới, anh của Vũ Cẩn.
26 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn niên hiệu Quảng Hòa 4 (1544) đời Mạc Phúc Hải. Làm quan đến chức Lễ bộ Tả thị lang, tham chưởng Hàn lâm viện sự, tước Quân Xuyên hầu.
Năm Kỷ Mão 1579
Nguyễn Nhân Đại (1579 - 1657)
Người xã Thượng Đáp huyện Thanh Lâm – Nay là thôn Thượng Đáp xã An Châu huyện Nam Thanh tỉnh Hải Hưng.
59 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa 3 (1637) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Đô cấp sự trung, thăng Tự khanh, về trí sĩ. Thọ 79 tuổi.
Trịnh Lương Bật (1579 - 1661)
Người xã Lỗ Xá huyện Cẩm Giàng – Nay là thôn Lỗ Xá xã Nhân Hòa huyện Mỹ Văn tỉnh Hải Hưng.
62 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa 6 (1640) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Hình bộ Tả thị lang, tước bá, về trí sĩ. Thọ 83 tuổi. Sau khi mất, được tặng chức Hình bộ Thượng thư, tước hầu.
Năm Kỷ Mão 1639
Nguyễn Côn (1539 - ?)
Người xã Nguyễn Xá huyện Thạch Thất – Nay là thông Chàng xã Thạch Xá huyện Thạch Thất tỉnh Hà Tây.
42 tuổi đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất khoa Canh Thân niên hiệu Vĩnh Trị 5 (1680) đời Lê Hy Tông. Thi Đình xếp thứ ba. Làm quan đến chức Hiến sát sứ.
Đào Tuấn Ngạn (1639 - 1718)
Người xã Ngọc Cục huyện Đường An – Nay là thôn Ngọc Cục xã Thúc Kháng huyện Cẩm Bình tỉnh Hải Hưng.
45 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 (1683) đời Lê Hy Tông. Làm quan đến chức Tham chính, Thái trường Tự khanh, tước nam, về trí sĩ. Thọ 80 tuổi.
Vũ Trọng Trình (1639 - ?)
Người xã Mộ Trạch huyện Đường An – Nay là làng Mộ Trạch xã Tân Hồng huyện Cẩm Bình tỉnh Hải Hưng.
Đỗ khoa Sĩ vọng. 47 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Sửu niên hiệu Chính Hòa 6 (1685) đời Lê Hy Tông. Làm quan đến Hiến sát sứ.
Năm Kỷ Mão 1699
Lê Hoàn Hạo (1699 - ?)
Người xã Bát Tràng huyện Gia Lâm, Hà Nội. Đổi tên là Hoàn Toản. Em của Lê Hoàn Viện.
Thi Hương đỗ Giải nguyên, 29 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái 8 (1727) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Học sĩ, tước bá, về trí sĩ.
Nguyễn Bá Tuân (1699 - ?)
Người xã Đa Hòa huyện Đông Yên – Nay là thôn Đa Hòa xã Bình Minh huyện Châu Giang tỉnh Hải Hưng.
38 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1736) đời Lê Ý Tông. Làm quan đến chức Hàn lâm viện Đãi chế.
Năm Kỷ Mão 1819
Nguyễn Thái (1819 - ?)
Người xã Thịnh Lạc huyện Nam Đường – Nay là xã Hùng Tiến huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
Thi Hương đỗ Giải nguyên khoa Đinh Mùi (1847).
Phó bảng khoa Tân Hợi niên hiệu Tự Đức 4 (1851). Làm quan Án sát Hưng Yên. Cùng năm đỗ Đệ nhị giáp cát sĩ xuất thân khoa Bác học hoành tài. Lúc đầu được bổ chức Hàn lâm viện trước tác, sung chức Tu thư ở Vận hải sở (*). Năm Tự Đức thứ 6 (1853) làm Đốc học Quảng Ngãi. Năm Tự Đức 9 (1856) về Kinh làm Tập hiền viện Thị độc, sung Kinh diên khởi cư chú, Thị độc học sĩ. Năm Tự Đức 14 (1861) được bổ chức Án sát Hưng Yên.
(*) Vận hải sở: Tên cơ quan biên soạn bộ sách vận thư, tức bộ Khâm định Tập vận trích yếu.
Năm Kỷ Mão 1879
Ngô Đức Kế (1879 - 1929)
Người làng Trảo Nha huyện Thạch Hà tỉnh Hà tĩnh – Nay là thôn Nam Sơn thị trấn Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Con Ngô Huệ Liên, cháu nội Ngô Phùng.
Sinh năm Kỷ Mão. Cử nhân khoa Đinh Dậu (1897)
23 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái 13 (1901) // Trẻ tuổi đỗ Tiến sĩ, lại có thân phụ là cụ Ngô Huệ Liên đang làm Tham tri bộ Lễ tại triều nhưng Ngô Đức Kế từ chối không ra làm quan. Ông về quê nhà một thời gian rồi ra Hà Nội và đi nhiều nơi tiếp xúc với các thân sĩ ở Bắc Hà và Trung Kỳ, đề xướng tân học, vận động duy tân cứu nước. Sau khi Phan Bội Châu xuất dương (1905), Ngô Đức Kế cùng các bạn đồng chí đảm nhận trách nhiệm phối hợp ở trong nước, nhen nhóm cổ vũ phong trào Đông Du. Nhân vụ biểu tình chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ, Nam triều và thực dân Pháp vu cho ông “tiềm thông dị quốc” bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh (1908) khép án “giảo giam hậu” (treo cổ, nhưng giam lại chưa thi hành ngay). Sau 13 năm bị tù đày ở Côn Đảo, năm 1921 Ngô Đức Kế cùng Đặng Nguyên Cẩn, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Kỳ Phong được trả lại tự do. Năm 1922, Ngô Đức Kế ra Hà Nội viết báo Hữu Thanh, mở Giác quần thư xã để chấn hưng dân khí. Bài xã thuyết Luận chính học cùng tà thuyết của Ngô Đức Kế có tiếng vang lớn, góp phần động viên tầng lớp thanh niên trí thức đương thời đi vào con đường đấu tranh cách mạng. Cụ lâm bệnh mất tại Hà Nội (10/12/1929).
Ngô Đức Kế, hiệu Tập Xuyên. Tác phẩm chữ hán có: Thiên nhiên học hiệu ký, Thái Nguyên thất nhật quang phục ký. Tác phẩm bằng chữ quốc ngữ có: Luận chính học và tà thuyết và nhiều văn chính luận đăng báo Hữu Thanh. Cụ còn biên tập và giới thiệu Phan Tây Hồ di thảo, Đông Tây vĩ nhân...
Trịnh Thuần (1879 - ?)
Người thôn Ích Hạ xã Trì Trọng huyện Mỹ Hóa phủ Hà Trung tỉnh Thanh Hóa – Nay thuộc huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa.
Sinh năm Kỷ Mão. Cử nhân khoa Kỷ Dậu (1909).
38 tuổi đỗ Đình nguyên, Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Bính Thìn niên hiệu Khải Định 1 (1916) (*). Giáo thụ Hưng Nguyên.
(*) Khoa thi này (1916) lấy đỗ 7 Tiến sĩ, 6 Phó bảng.
Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919. Nxb Văn học 1993