Năm Đinh mão 1447
Nguyễn Tắc Dĩnh (1447 - ?)
Người xã Lam Cầu huyện Hoằng Hóa – Nay là thôn Lam Cầu xã Quảng Văn huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa.
32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Hộ bộ Tả thị lang.
Hoàng Công Đảng (1447 - ?)
Nguyên quán tôn Man Nhuế huyện Thanh Lâm (Thôn Man Nhuế đến đầu thời Nguyễn thuộc tổng Trác Châu. Các thôn của tổng này còn tìm thấy trên bản đồ, chỉ thiếu tên thôn Man Nhuế. Như vậy thôn này có thể thuộc một trong hai xã Ngọc Châu (tx.Hải Dương) hoặc An Châu (Nam Thanh)). Trú quán xã Đồng Khê – Nay thuộc xã An Lâm huyện Nam Thanh tỉnh Hải Hưng.
32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Thượng thư, tước Phú Thọ nam, về trí sĩ.
Phạm Quảng Hiếu (1477 - ?)
Người xã Uông Hạ huyện Thanh Lâm – Nay là thôn Uông Hạ xã Minh Tân huyện Nam Thanh tỉnh Hải Hưng.
44 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức 21 (1490) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Thị Lang.
Nguyễn Cảnh Diễn (1447 - ?)
Người xã Yên Tử Thượng huyện Tân Minh – Nay là thôn Yên Tử Thượng xã Khởi Nghĩa huyện Tiên Lãng tỉnh Hải Phòng.
56 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiến Tông. Làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư.
Năm Đinh mão 1507
Bùi Trí Vĩnh (1507 - ?)
Người xã Đào Xá huyện Phù Vân – Nay thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh hà Tây. Con của Bùi Doãn Hiệp.
29 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi niên hiệu Đại Chính 6 (1535) đời Mạc Đăng Doanh. Làm quan đến chức Tả thị lang, tước Mỹ Thạch bá.
Giáp Hải (1507 - 1586)
Người xã Dĩnh Kế huyện Phượng Nhãn – Nay thuộc xã Dĩnh Trì huyện Lạng Giang tỉnh Hà Bắc. Cha của Giáp Lễ.
32 tuổi đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Mậu Tuất niên hiệu Đại Chính 9 (1538) đời Mạc Đăng Doanh. Từng đi sứ sang nhà Minh. Làm quan trải Lục bộ Thượng thư kiêm Đông các, Nhập thị kinh diên, Thái bảo, tước Sách quốc công, về trí sĩ.
Giáp Hải nguyên tên là Giáp Trưng, hiệu Tiết Trai, tác phẩm có Tuy bang tập.
Nguyễn Hữu Dực (1507 - ?)
Người xã Cống xuyên huyện Thượng Phúc – Nay là thôn Cống Xuyên xã Dũng Tiến huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây.
38 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Quảng Hoàn 4 (1544) đời Mạc Phúc Hải. Làm quan đến chức Tham chính, tước bá.
Năm Đinh Mão 1567
Nguyễn Khuê (1567 - ?)
Người xã Ngọc Trì huyện Lang Tài – Nay thuộc xã Bình Định huyện Gia Lương tỉnh Hà Bắc. Con của Nguyễn Phúc Diên.
44 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Hoằng Định 11 (1610) đời Lê Kính Tông. Từng được cử đi sứ sang nhà Minh. Làm quan đến chức Đô cấp sự trung.
Hoàng Công Phụ (1567 - 1646)
Người xã Yên Ninh huyện Yên Dũng – Nay là thôn Yên Ninh xã Ninh Sơn huyện Việt Yên tỉnh Hà Bắc.
53 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi niên hiệu Hoằng Định 20 (1619) đời Lê Kính Tông. Năm Đức Long (1630) được cử đi sứ sang nhà Minh. Làm quan đến chức Binh bộ Tả thị lang, tước Thọ Nham hầu, về trí sĩ. Thọ 80 tuổi. Khi mất, được tặng Thượng thư.
Đặng Phi Hiển (1567 - 1650)
Người xã Thụy Trung huyện Giao Thủy – Nay thuộc huyện Xuân Thủy tỉnh Nam Hà.
62 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Đông các địa học sĩ. Thọ 84 tuổi.
Nguyễn Khắc Văn (1567 - ?)
Người phường Hà Khẩu huyện Thọ Xương – Nay là phố Hàng Buồm quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nguyên quán xã Hoằng Liệt huyện Thanh Trì – Nay thuộc xã Hoằng Liệt huyện Thanh Trì, Hà Nội. Cha của Nguyễn Khắc Thiệu.
62 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Quang Lộc tự khanh. Khi mất, được tặng chức Lễ bộ Hữu thị lang.
Quách Đồng Dần (1567 - 1650)
Người xã Phù Khê huyện Đông Ngàn – Nay là thông Phù Khê huyện Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc. Cha của Quách Đồng Đức.
68 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất niên hiệu Đức Long 6 (1634) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Thừa chính sứ, thăng Lễ bộ Hữu thị lang, về trí sĩ. Thọ 84 tuổi.
Năm Đinh Mão 1627
Nguyễn Đình Trụ (1627 - 1703)
Người xã Nguyệt Áng huyện Thanh Trì – Nay là thôn Nguyệt Áng xã Đại Áng huyện Thanh Trì, Hà Nội. Em của Nguyễn Quốc Trinh, cha Nguyễn Đình Bách và Nguyễn Đình Ức.
30 tuổi đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thân niên hiệu Trịnh Đức 4 (1656) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Hàn lâm hiệu thảo tước Đê Đường nam. Thọ hơn 70 tuổi. Tác phẩm hiện còn 8 bài thơ chữ Hán chép trong TVTL.
Đỗ Thiện Chính (1627 - ?)
Người xã Đông Biện huyện Vĩnh Phúc – Nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa.
33 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2 (1659) đời Lê Thần Tông. Trước đã đỗ khoa Sĩ vọng, giữ chức Chỉ huy sứ. Sau khi thi đỗ làm quan đến chức Hữu thị lang bộ Công, tước tử, về trí sĩ.
Năm Đinh Mão 1687
Nguyễn Quốc Tĩnh (1687 - ?)
Người xã Ông Mặc huyện Đông Ngàn – Nay là thôn Ông Mặc xã Hương Mạc huyện Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc.
24 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Đề hình giám sát ngự sự. Sau khi mất, được tặng chức Tham chính.
Dương Lệ (1687 - 1741)
Người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm – Nay là xã Lạc Đạo huyện Mỹ Văn tỉnh Hải Hưng. Cháu xa đời của Dương Phúc Tư.
Đỗ khoa Sĩ vọng. 26 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Vĩnh Thịnh 8 (1712) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Công bộ Tả thị lang. Sau khi mất, được tặng chức Thượng thư, tước hầu. Thọ 54 tuổi.
Vũ Công Tế (1687 - 1745)
Người xã Hải Bối huyện Yên Lãng – Nay là thôn Hải Bối xã Hải Bối huyện Đông Anh, Hà Nội.
32 tuổi đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718) đời Lê Dụ Tông. Năm Bảo Thái 7 (1726) ông giữ chức Bồi tụng, cùng với Hồ Phi Tích lên biên giới Tuyên Quang hội đồng với sứ thần nhà Thanh xem xét xác định đường quốc giới của hai nước. Khi Trịnh Doanh chấp chính, ông được vào triều tham dự chính sự, thăng đến Tham tụng, Lại bộ Thượng thư// tước Lãng quận công. Sau khi mất được tặng hàm Thiếu bảo.
Nguyễn Toàn (1687 - 1736)
Người xã Nỗ Bạn huyện Thanh Trì – Nay là thôn Nỗ Bạn xã Liên Phương huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây. Trú quán xã Văn Giáp huyện Thượng Phúc – Nay là thôn Văn Giáp xã Bạch Đằng (cũ) cùng huyện. Cháu xa đời Nguyễn Đức, con Giám ban Khuê quận công.
32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Binh bộ Tả thị lang, Hữu tư giảng, tước hầu. Thọ 50 tuổi. Khi mất, được tặng chức Binh bộ Thượng thư, truy phong tước Đại vương.
Nguyễn Lệnh Nghi (1687 - ?)
Người xã Thanh Lâm huyện Thanh Lâm – Nay là thôn Thanh Lâm xã An Thịnh huyện Gia Lương tỉnh Hà Bắc.
32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Lại bộ Tả thị lang. Được cử đi sứ sang nhà Thanh, mất trên đường đi, được tặng chức Hình bộ Thượng thư, tước Sách quận công.
Phạm Đỉnh Chung (1687 - ?)
Người xã Tuấn Kiệt huyện Đường An – Nay thuộc xã Cẩm Phúc huyện Cẩm Bình tỉnh Hải Hưng.
38 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái 5 (1724) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Hữu thị lang, về trí sĩ. Sau khi mất, được tặng chức Hộ bộ Hữu thị lang.
Năm Đinh Mão 1747
Nguyên Hàn (1747 - ?)
Người xã Phú Thị huyện Gia Lâm – Nay là thôn Phú Thị xã Phú Thị huyện Gia Lâm, Hà Nội.
33 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Thịnh khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1799) đời Lê Hiển Tông; làm quan đến chức Hàn lâm đãi chế, Đốc đồng Cao Bằng.
Nguyễn Đình Thiều (1747 - ?)
Người xã Phù Cảo huyện Đông Ngàn – Nay là thôn Phù Cảo xã Phú Chẩn huyện Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc.
33 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Thịnh khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779) đời Lê Hiển Tông. Làm quan đến chức Hàn lâm viện thị chế, Đốc đồng Sơn Tây. Nhà Lê mất, ông về ẩn ở quê.
Nguyễn Cầu (1747 - ?)
Người xã Yên Khê huyện Gia Lâm – Nay là thôn Yên Khê xã Yên Thường huyện Gia Lâm, Hà Nội.
35 tuổi đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu (*) niên hiệu Cảnh Hưng 42 (1781) đời Lê Hiển Tông. Làm quan đến chức Đông các hiệu thư. Đầu đời Gia Long ông được bổ chức Đốc học Hưng Hóa.
(*) Khoa thi này (1781) lấy đỗ 2 tiến sĩ.
Lê Trọng Dĩnh (1747 - ?)
Người xã Đa Sĩ huyện Thanh Oai – Nay là thôn Đa Sĩ xã Kiến Hưng thị xã Hà Đông, Hà Tây.
Trước làm Huấn đạo. 41 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế. Làm quan đời Chiêu Thống đến chức Cấp sự trung, Hàn lâm thừa chỉ, tước Đan Phong bá, sau làm Đốc học xứ Sơn Nam, Lại bộ Tả thị lang.
Phan Bảo Định (1747 - ?)
Người xã An Toàn huyện La Sơn – Nay là thôn Yên Đồng xã Châu Phong (Đức Châu) huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh.
Giám sinh, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế. Đời Lê Chiêu Thống làm quan Công khoa đô cấp sự trung. Dưới triều Tây Sơn ông được vời vào làm việc tu thư ở Viện Sùng Chính tại Phú Xuân một thời gian rồi xin về quê nhà. Đầu đời Nguyễn ông được bổ chức Đốc học Thanh Hoa, sau đổi về Đốc học Nghệ An.
Năm Đinh Mão 1807
Nguyễn Bá Nghi (1807 - ?)
Người xã Thì Phố huyện Mộ Hoa tỉnh Quảng Ngãi – Sau là xã Lạc Phố huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi.
Sinh năm Đinh Mão. Cử nhân khoa Tân Mão (1831).
26 tuổi đỗ Phó bảng khoa Nhâm Thìn niên hiệu Minh Mệnh 13 (1832). Lúc đầu được bổ chức Bố chính An Giang; có tiếng cả về văn học và chính sự; thăng Tham tri bộ Lại, sung Kinh diên, cơ mật viện đại thần; thăng Hưng Tuyên, hàm Thự Hiệp biện đại học sĩ. Mất ở lỵ sở.
Nguyễn Bá Nghi, hiệu Sư Phần. Tác phẩm có Sư Phần thi văn tập.
Nguyễn Cửu Trường (1807 - ?)
Người xã Gia Miêu Ngoại Trang huyện Tống Sơn tỉnh Thanh Hóa – Nay thuộc huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa. Trú quán xã Hoàng Công huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình – Nay thuộc huyện Lệ Ninh tỉnh Quảng Bình.
Sinh năm Đinh Mão, Giám sinh.
32 tuổi thi đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất niên hiệu Minh Mệnh 19 (1838) (*).
Làm quan Nội các, thăng Tuần phủ Biên Hòa. Khi đi nhậm chức, được vua Minh Mệnh ban 1 bài ngự thi.
(*) Khoa thi này (1838) lấy đỗ 10 Tiến sĩ, 10 Phó bảng.
Nguyễn Văn Dực (1807 - ?)
Người xã Chiên Đàn huyện Hà Đông tỉnh Quảng Nam – Thuộc xã Chiên Đàng (cũ) huyện Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.
Sinh năm Đinh Mão. Cử nhân khoa Đinh Dậu (1837)
32 tuổi đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất niên hiệu Minh Mệnh 19 (1838).
Ông học hạnh thuần chính, được kẻ sĩ Nam Kỳ quý trọng. Lĩnh chức Đốc học Quảng Nam, hàm Tế tửu, sau được điều về Kinh sung chức Giáo thụ Dục Đức đường. Khi mất, được tặng chức Tham tri.
Nguyễn Tường Phổ (1807 - 1856)
Người xã Cẩm Phố huyện Diên Phước tỉnh Quảng Nam – Nay thuộc huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam. Em của Nguyễn Tường Vĩnh.
Sinh năm Đinh Mão. Cử nhân khoa Tân Sửu (1841).
36 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Dần niên hiệu Thiệu Trị 2 (1842). Sau khi đỗ, ông được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, được điều đi làm Tri phủ Hoằng An. Bị cách chức, sau được phục chức, đổi làm Tri phủ Tân An. Năm Tự Đức 6 (1853) giáng bổ Giáo thụ huyện Điện Bàn, sau thăng quyền Đốc học Quảng Nam. Ông là người có khí tiết, không vui việc tiến thân, chỉ lấy thơ, rượu làm vui. Người đời ví ông như Đào Tiềm. Thọ 50 tuổi.
Nguyễn Tường Phổ, tự Quảng Thúc và Hy Nhân, hiệu Thứ Trai. Tác phẩm có Thứ Trai thi tập.
Năm Đinh Mão 1867
Bùi Hữu Tụy (1867 - ?)
Người xã Thanh Thủy huyện Nam Đàn – Nay là xã Nam Thanh huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
Sinh năm Đinh Mão. Cử nhân khoa Kỷ Dậu (1909).
44 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Duy Tân 4 (1910). Thừa chỉ bộ Học.
Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919. Nxb Văn học 1993